Lưu trữ

Author Archive

Chính phủ kiến nghị: Quyền lập hiến thuộc về nhân dân

Tháng Chín 4, 2013 Bình luận đã bị tắt

Chính phủ kiến nghị: Quyền lập hiến thuộc về nhân dân– Về các nội dung liên quan đến quyền lập hiến của nhân dân, Chính phủ cho rằng cần xác định quyền lập hiến là thể hiện cao nhất chủ quyền nhân dân.

Xem chi tiết…

Tuyên bố chủ quyền biển đảo trong Hiến pháp

Tháng Chín 3, 2013 Bình luận đã bị tắt

 – “Cần thể hiện mạnh mẽ chủ quyền biển, các vùng biển và hải đảo, đặc biệt là Trường Sa và Hoàng Sa trong Hiến pháp”, ông Trần Ngọc Định, ĐH Luật Hà Nội, nhấn mạnh.

Ngày 1/3, tại Hà Nội, Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam tổ chức hội nghị lấy ý kiến về dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992.

Thêm điều hay nhưng… bất khả thi

Nội dung được thảo luận nhiều nhất là quy định về quyền con người, công dân. Các đại biểu nhận định, việc dự thảo Hiến pháp đưa chương về quyền con người, công dân từ chương 5 lên chương 2 là một bước tiến bộ.

Một số quyền bổ sung trong dự thảo được đánh giá là mới mẻ, nhân văn nhưng… bất khả thi. Chẳng hạn, quy định mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành. Theo TS. Nguyễn Văn Cương, Phó viện trưởng Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, quy định này rất khó thực hiện “trong bối cảnh phát triển kinh tế, với quá trình công nghiệp hóa, khai thác khoáng sản… như hiện nay”.

Chung quan điểm trên, Bí thư Đoàn ĐH Luật Hà Nội Trần Ngọc Định cho rằng việc đưa vào các quyền không thực hiện được có thể làm mất sự tôn nghiêm của Hiến pháp.

Liên quan đến điều 26 về quyền tự do ngôn luận, báo chí, biểu tình…, ông Định nhận xét, sử dụng cụm từ “theo quy định pháp luật” có thể dẫn đến cách hiểu mù mờ và tạo điều kiện cho các cơ quan ban hành luật giải thích theo ý muốn chủ quan. Vì vậy, những nguyên tắc về tôn trọng quyền và tự do của con người “chỉ được trao cho Quốc hội quyền ban hành việc thực hiện như thế nào, giới hạn, phạm vi ra sao”.

Dẫn ra điều 21 mới được đưa vào dự thảo, “mọi người có quyền được sống”, TS Đỗ Thị Vân Anh, ĐH Công đoàn, cho rằng nên cân nhắc khái niệm “mọi người” và “công dân”. Bởi nếu coi đó là quyền của mọi người thì “chúng ta sẽ phải bỏ án tử hình vì không có quyền thi hành án với tử tù”.

Không lấy chế độ tập thể che lấp trách nhiệm cá nhân

TS Nguyễn Văn Cương nhấn mạnh sự lạc hậu, gây chậm trễ, mất thời gian của mô hình tổ chức chính quyền địa phương theo 3 cấp: tỉnh, huyện, xã; mỗi cấp đều tổ chức HĐND và UBND. Theo ông, đây là mô hình tồn tại từ thời kinh tế kế hoạch hóa tập trung.

Khi chuyển sang cơ chế thị trường, nhà nước từ vai trò “chủ cuộc chơi” kinh tế chuyển sang chỉ còn là một trong những “người chơi”. “Muốn “chơi” tốt thì tính phản ứng chính sách, năng động trong điều hành rất quan trọng”, ông Cương nhận định.

Đặc biệt, tại các đô thị năng động, mô hình này càng bộc lộ sự không phù hợp. Chẳng hạn, TP.HCM, Đà Nẵng nhiều năm nay tha thiết đề nghị phải cho họ cơ chế để thiết lập một chính quyền đô thị năng động hơn, có sự khác biệt nhất định với nông thôn.

Tiến sĩ Cương nhận định: “Mô hình hiện tại của chúng ta, UBND vận hành theo chế độ tập thể. Như vậy phân định trách nhiệm cá nhân và tập thể là vô cùng khó. Cần phải có cách thức xử lý rõ ràng trách nhiệm của người đứng đầu. Không lấy chế độ tập thể che lấp trách nhiệm cá nhân”.

Ông Cương đề xuất, Hiến pháp chỉ nên quy định tỉnh, thành phố trực thuộc TƯ bắt buộc thành lập HĐND. Còn các cấp bên dưới có thể chỉ là cơ quan hành chính, và thành lập HĐND hay không là do luật định. Đồng thời, ông Cương cũng đề xuất bỏ thuật ngữ UBND, thay thế bằng thuật ngữ cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.

Ngoài ra, trong vấn đề phân chia địa giới hành chính, theo ông Cương, Hiến pháp sửa đổi nên chấp nhận cả khả năng có thành phố trong thành phố trực thuộc TƯ (chẳng hạn thành phố Sơn Tây trong thành phố Hà Nội). “Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc TƯ, còn đơn vị hành chính lãnh thổ trong tỉnh, thành phố trực thuộc TƯ thì do luật định”, TS Cương đề xuất.

Tại hội nghị, nhiều ý kiến cho rằng việc dự thảo Hiến pháp bỏ điều 66 về vai trò của thế hệ trẻ, tổ chức đoàn, hội thanh niên trong xã hội, trong sự phát triển của đất nước là một bước thụt lùi.

Trong khi, lực lượng từ 0-30 tuổi chiếm đến hơn 50% dân số cả nước. Hiện các nước trên thế giới quan niệm thế hệ trẻ vừa là chủ nhân trong tương lai, vừa là chủ nhân hiện tại của đất nước. Như vậy không thể bỏ điều 66.

Mỹ Hòa
vietnamnet.vn

‘Vì dân nên phải hiến định điều 4’

Tháng Tám 23, 2013 Bình luận đã bị tắt

 GS.TS Hoàng Chí Bảo khẳng định Đảng với dân là thống nhất, phủ nhận Đảng tức là phủ nhận vai trò của dân. Vì dân mà phải bảo vệ Đảng, phải hiến định điều 4.

>> 3 câu hỏi về kiểm soát quyền lực
>> Làm rõ cam kết pháp lý của Đảng trước dân
>> Thời điểm chín muồi xây dựng luật về Đảng
>> Hiến pháp nên đề cập về Đảng thế nào?

Chiều 7/3, báo Quân đội nhân dân tổ chức tọa đàm góp ý kiến vào dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 với trọng tâm là bàn về điều 4.

Một trong những mục tiêu của buổi tọa đàm là đưa ra những quan điểm phản bác nhằm đấu tranh với những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị trong việc lợi dụng chủ trương của Đảng, Nhà nước về việc tổ chức lấy ý kiến của nhân dân vào dự thảo sửa đổi Hiến pháp.

Tồn tại hợp hiến, hợp pháp

Hầu hết đại biểu đều viện dẫn các luận cứ lịch sử để khẳng định vai trò của Đảng. Việc hiến định điều 4 được cho là phù hợp ý chí nguyện vọng, khát vọng của nhân dân.

GS.TS Hoàng Chí Bảo, ủy viên Hội đồng Lý luận TƯ giải thích, mọi khác biệt về tư tưởng cũng nên coi là bình thường trong tiến trình dân chủ hiện nay. Quan trọng là xuất phát từ động cơ chính trị, động cơ đạo đức gì, vì xây dựng, kiến tạo hay phá hoại.

Ông Hoàng Chí Bảo: Điều 4 lần này đã hiến định địa vị pháp lý của Đảng một cách rõ ràng, thuận lòng dân

Có hai nguyên nhân, theo ông Bảo, một là do không hiểu biết, chưa đủ thông tin hoặc do nhận thức chưa đầy đủ nên đưa ra những kiến nghị không chính xác. Nhưng cũng không loại trừ sự phủ nhận một cách có ý thức.

Ông Bảo cho rằng, nếu Đảng thực sự vững mạnh, trong sạch thì tự thân việc củng cố sức mạnh không cần phải bàn. Song, trong bối cảnh hiện nay, khi Đảng cũng đang đối mặt với nhiều khó khăn thách thức thì lại mở ra cơ hội cho những luồng tư tưởng xấu phủ nhận vai trò và hạ uy tín của Đảng.

“Tuy nhiên, Đảng với nhân dân là thống nhất, với nhà nước là thống nhất. Phủ nhận vai trò của Đảng tức là phủ nhận vai trò của nhân dân, phủ nhận ý chí, nguyện vọng của nhân dân, phương hại đến nền độc lập tự do của Tổ quốc. Phương hại đến quyền sống, quyền tự do hạnh phúc của nhân dân. Vì bảo vệ dân mà phải bảo vệ Đảng. Vì bảo vệ dân mà phải hiến định nó”, ông Bảo khẳng định.

Ông Hoàng Chí Bảo cũng đưa ra hàng loạt luận cứ mang tính lịch sử về vai trò lãnh đạo tất yếu của Đảng. Theo đó, việc tiếp tục hiến định vai trò lãnh đạo của Đảng chính là nhằm khẳng định tính chính đáng của Đảng về mặt địa vị pháp lý, cũng là gắn trách nhiệm pháp lý chính trị của Đảng với nhân dân và xã hội.

Không những thế, Đảng còn có đầy đủ phẩm chất đạo đức xứng đáng cho lực lượng cầm quyền thông qua đánh giá của nhân dân và lịch sử. “Sự tồn tại của Đảng là sự tồn tại hợp hiến, hợp pháp”, ông Bảo khẳng định.

“Điều 4 lần này đã hiến định địa vị pháp lý của Đảng một cách rõ ràng, thuận lòng dân và phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội hiện đại”, ông Bảo kết luận.

Trung tướng, TS Nguyễn Tiến Bình, nguyên Chính ủy Học viện Quốc phòng bổ sung, nguyên nhân của việc xuất hiện các luồng tư tưởng kích động, chống đối cũng một phần do những yếu kém và sai lầm của bộ máy cầm quyền. Đó là tệ quan liêu, tham nhũng, xa dân, bộ máy lãnh đạo đang để nhóm lợi ích chi phối… Tất cả gây rạn vỡ niềm tin trong dân với đảng cầm quyền.

Không nên chỉ chịu trách nhiệm chính trị

Theo các đại biểu, cách tốt nhất để phản bác những luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ chính là Đảng phải đổi mới phương thức lãnh đạo, phát huy dân chủ. Bởi chỉ có làm cho Đảng mạnh, trong sạch mới là con đường bền vững.

Theo các đại biểu, cách tốt nhất để phản bác những luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ chính là Đảng phải đổi mới phương thức lãnh đạo, phát huy dân chủ

Trung tướng Hồng Cư, nguyên Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị nhấn mạnh, Đảng phải thể hiện tính tiền phong trong việc đưa đất nước phát triển. Thời gian tới, cần củng cố và hoàn thiện nhà nước pháp quyền, việc quản lý nhà nước phải bằng pháp luật, kể cả Đảng cũng phải tuân theo pháp luật.

“Tôi đề nghị bổ sung thêm nguyên tắc: Đảng cầm quyền, dân làm chủ. Mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Đảng lãnh đạo chính quyền là để củng cố quyền làm chủ của dân, mọi quyền lực phải thuộc về dân. Trái với nguyên tắc này thì Đảng sẽ thoái hóa, biến chất, đối lập với dân, đứng trên dân còn đảng viên sẽ thành quan cách mạng, vinh thân phì gia”, ông Cư nhắc nhở.

Ông Cao Đức Thái, nguyên Viện trưởng Viện Nhân quyền, Học viện Chính trị – hành chính quốc gia Hồ Chí Minh đề xuất, cần nhất là phát huy dân chủ trong Đảng. Có nhiều cách để hiện thực hóa nguyên tắc này.

Chẳng hạn, các cuộc bầu cử phải có số dư, Tổng bí thư hay ủy viên Bộ Chính trị cũng đều phải có số dư.

Mặt khác, cần nâng cao vai trò của Ủy ban Kiểm tra TƯ, hiện nay tương ứng với một ban đảng, nhưng muốn xử lý vấn đề gì đều do Bộ Chính trị quyết định. Trong khi đó, ủy ban này phải được kiểm tra từ cấp cao nhất cho đến các ủy viên Bộ Chính trị. Cũng theo ông Thái, cần nâng cấp điều lệ Đảng thành luật. Bởi Đảng cần phải chịu trách nhiệm pháp lý về các quyết định của mình thay vì trách nhiệm chính trị như lâu nay.

Một đề xuất khác, đó là hợp nhất chức danh bên chính quyền với chức vụ trong Đảng.

Trung tướng, PGS.TS Nguyễn Tiến Bình, nguyên chính ủy Học viện Quốc phòng bổ sung thêm, chính bản lĩnh, dũng khí và sự gương mẫu của người đứng đầu có ý nghĩa ảnh hưởng trực tiếp đến an nguy của đất nước.

“Vừa qua xuất hiện tình trạng nhiều người đứng đầu do bản lĩnh kém và không gương mẫu, lại lạm dụng quyền lực và thủ đoạn để làm giàu. Người dân suy giảm lòng tin với Đảng… Trong khi đó, cốt lõi nhất phải là Đảng phải thực sự vì dân”, ông Bình nói.

Lê Nhung – Ảnh: Lê Anh Dũng
vietnamnet.vn

Không lợi dụng góp ý Hiến pháp làm sai lệch quan điểm của Đảng

Tháng Tám 23, 2013 Bình luận đã bị tắt

Phát biểu tại hội nghị trực tuyến của Chính phủ ngày 6/3 về việc lấy ý kiến đối với dự thảo sửa đổi Hiến pháp, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc yêu cầu các cơ quan tổng hợp phải có sự phản bác lại với các ý kiến sai lệch với đường lối lãnh đạo của Đảng trên cơ sở lý luận khoa học.

Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Trưởng Ban chỉ đạo đánh giá đến thời điểm này, việc Chính phủ tổ chức lấy ý kiến nhân dân vào dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã cơ bản thành công, đạt mục đích và yêu cầu đề ra. “Đây thực sự là cuộc sinh hoạt chính trị rộng lớn trong đời sống chính trị đất nước, thu hút sự quan tâm đặc biệt của đồng bào trong và ngoài nước”, ông nói.

Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc: Đối với những nội dung góp ý trái với đường lối của Đảng, cần phải phản bác lại trên cơ sở lý luận khoa học

Phó Thủ tướng đánh giá, các bộ, ngành, địa phương xây dựng báo cáo tổng hợp ý kiến cho dự thảo sửa đổi Hiến pháp cần đảm bảo tính dân chủ, khách quan, trung thực. Đối với những nội dung góp ý trái với đường lối của Đảng cần phải phản bác lại trên cơ sở lý luận khoa học. Không để lợi dụng việc góp ý làm sai lệch quan điểm đường lối của Đảng.

Phó Thủ tướng lưu ý các cơ quan, đơn vị cần tranh thủ sự góp ý của các nhà khoa học, chuyên gia, nhà quản lý. Báo cáo cần thể hiện rõ phương pháp thống kê, so sánh các ý kiến ủng hộ, không ủng hộ đối với các vấn đề quan trọng.

“Các bộ, ngành địa phương duy trì tiếp nhận ý kiến nhân dân để góp phần hoàn thiện dự thảo cho đến khi được thông qua vào cuối năm 2013”, Phó Thủ tướng lưu ý.

Phó Thủ tướng đề nghị các cấp ủy chỉ đạo các phương tiện truyền thông tuyên truyền đúng định hướng, đảm bảo tự do, dân chủ. Các cơ quan báo chí quan tâm đăng tải các ý kiến về dự thảo, đồng thời phải thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước về việc sửa đổi Hiến pháp.

Trước đó, Bộ trưởng Tư pháp Hà Hùng Cường nêu ý kiến, các bộ, ngành, địa phương chủ yếu lấy ý kiến đóng góp vào dự thảo sửa đổi Hiến pháp ở các đối tượng là cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang. Vùng nông thôn, nông dân, các chức sắc, tôn giáo, đồng bào dân tộc thiểu sổ còn ít được tổ chức lấy ý kiến. Bộ trưởng Hà Hùng Cường lưu ý các địa phương tập trung thực hiện lấy ý kiến những đối tượng này.

Ông Cường cũng đề nghị các địa phương cố gắng đảm bảo thời hạn hoàn thành báo cáo tổng hợp ý kiến vào ngày 15/3 để gửi đến Ban chỉ đạo. Đối với việc tiếp tục thu thập ý kiến đóng góp của nhân dân sau ngày 31/3, Ban chỉ đạo sẽ báo cáo Thủ tướng để điều chỉnh kế hoạch để các bộ, ngành, địa phương có phương án thực hiện.

Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Phạm Thị Hải Chuyền góp ý, các bộ, ngành chưa tận dụng hết đội ngũ trí thức có trình độ để góp ý cho dự thảo.

Theo báo cáo của Bộ Tư pháp, tính đến ngày 4/3 đã có 54 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và 17 bộ, cơ quan ngang bộ gửi báo cáo về tình hình tổ chức lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp.

Quá trình triển khai lấy ý kiến nhân dân vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp gặp một số khó khăn như tiến hành trong thời gian tương đối gấp, trùng với thời gian các bộ, ngành, địa phương tập trung cao trong triển khai công tác năm 2013, sau đó là dịp nghỉ Tết Nguyên đán…

Nhiều ý kiến đề nghị sau thời hạn Chính phủ gửi báo cáo tổng hợp góp ý Hiến pháp lên Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp vào ngày 31/3, cần tiếp tục tổ chức tập hợp, tổng hợp lấy ý kiến cho đến khi Hiến pháp mới được thông qua.

PV (tổng hợp)
vietnamnet.vn

3 câu hỏi về kiểm soát quyền lực

Tháng Tám 19, 2013 Bình luận đã bị tắt

 – Đọc bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, có thể thấy ánh sáng của một tinh thần lập hiến hiện đại với những quy định về quyền con người và kiểm soát quyền lực nhà nước.

>> Kiểm soát quyền lực bằng cơ quan độc lập
>> Sửa Hiến pháp: Làm rõ kiểm soát quyền lực
>> Kiểm soát quyền lực để chống tham nhũng

Nhưng, thiết nghĩ, để những tia sáng ấy trở thành một vầng sáng rực rỡ, soi rọi vào quảng đại nhân dân, tạo động lực để đất nước phát triển hùng cường, thì dự thảo cần được nghiên cứu chỉnh sửa, bổ sung thêm, trước hết là ở các quy định về “kiểm soát” quyền lực. Nếu không, ý tưởng tốt tươi tại điều 2 dự thảo“Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” sẽ có nguy cơ trở thành một quy định treo, chỉ có tác dụng làm đẹp cho bản hiến văn.

Cơ chế nào để Đảng “chịu trách nhiệm”?

Hiến pháp Việt Nam từ năm 1980 đến nay quy định về mối tương quan giữa “Đảng”, “Nhà nước” và “nhân dân”. Quyền lãnh đạo của ĐCS VN được hiến định tại điều 4. Pháp luật, chính sách của Nhà nước phần lớn là để thể chế hóa các chủ trương, nghị quyết của Đảng.

Nhiều năm qua, vấn đề “đổi mới sự lãnh đạo của Đảng” đã được đặt ra có tính cấp thiết trong nội bộ Đảng và cả ngoài xã hội. Đảng cũng đang đứng trước “nguy cơ tồn vong” bởi “một bộ phận không nhỏ” đảng viên suy thoái, biến chất. Vậy nên, một trong những vấn đề đặt ra có tính khoa học và thực tiễn là: quyền lực của Đảng, hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên phải được kiểm soát, giám sát như thế nào? Thiết nghĩ, vấn đề này cần được hiến định rõ ràng, tương thích với điều 4 về sự lãnh đạo của Đảng đối với “Nhà nước và xã hội”.

Nếu Quốc hội đã được trao quyền lập pháp, thì Chính phủ phải được trao quyền hành pháp mới đảm bảo điều kiện “kiểm soát lẫn nhau”. Ảnh: Đại biểu Quốc hội khóa 13. Ảnh: Minh Thăng

Khoản 2 điều 4 trong dự thảo đã tiến thêm một bước so với quy định hiện hành trong Hiến pháp 1992 khi viết: “Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình”. Tôi hoàn toàn đồng ý với quy định Đảng “chịu sự giám sát” và “chịu trách nhiệm” trước nhân dân. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó thì chưa đủ, bởi chưa trả lời được câu hỏi “Nhân dân giám sát như thế nào? Đảng chịu trách nhiệm gì và chịu trách nhiệm đến mức nào trước nhân dân?”. Như vậy, cần một cơ chế đảm bảo về mặt hiến pháp và luật để nhân dân giám sát và Đảng chịu trách nhiệm.

Tôi “bỏ phiếu” cho ý kiến “cần phải luật hóa sự lãnh đạo của Đảng”. Đọc điều 4 trong dự thảo, tôi xin góp ý nên quy định như sau: “1. Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; 2.Đảng chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; 3. Hoạt động của Đảng do luật định”.

Tôi cho rằng, chỉ khi có một đạo luật về sự lãnh đạo của Đảng với nội dung tiến bộ, phù hợp, mới tránh được nguy cơ Đảng “lấn sân” chính quyền, tránh được tình trạng cá nhân hoặc nhóm lợi ích lợi dụng quyền lực của Đảng hoặc nhân danh Đảng để lộng quyền, lạm quyền để trục lợi và can thiệp vô nguyên tắc vào hoạt động của bộ máy Nhà nước. Giám sát tốt hoạt động của Đảng thì mới có cơ hội loại trừ “một bộ phận không nhỏ” đảng viên thoái hóa, biến chất, tức là tránh được nguy cơ “tồn vong của chế độ”.

Ai giám sát Quốc hội?

Điều 74 dự thảo viết: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước”.

Quy định như vậy thì mâu thuẫn với điều 2 dự thảo là quyền lực Nhà nước “có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”, bởi một khi Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất (không ai cao hơn) và thực hiện quyền giám sát tối cao thì các cơ quan hành pháp và tư pháp không thể có quyền “kiểm soát” đối với Quốc hội. Đây là một trong những vấn đề cần được nghiêm túc đặt ra, bởi nguy cơ lạm quyền và tham nhũng chính sách trên thực tế đã được cảnh báo và phát hiện ở nghị viện nhiều nước.

Có người trả lời rằng: Nhân dân, cụ thể là cử tri – những người bỏ phiếu bầu đại biểu Quốc hội – sẽ giám sát Quốc hội. Đây chỉ là cách trả lời ngụy biện, lạc quan tếu. Xin thưa, quyền lực chỉ có thể bị giám sát bởi các chế định quyền lực khác. Cử tri chỉ có thể giám sát (có mức độ) đối với từng đại biểu Quốc hội, chứ không thể giám sát có hiệu quả (thông qua những cảnh báo, chế tài) đối với Quốc hội.

Quy định tại điều 74 dự thảo như đã nêu trên cũng mâu thuẫn với nguyên tắc tối thượng tại điều 2 dự thảo là “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Viết theo điều 74 thì có thể hiểu là quyền lực là của dân nhưng nhân dân đã ủy thác tất cả quyền lực của mình cho Quốc hội mà không giữ lại quyền nào, ngay cả quyền quan trọng nhất là quyền phúc quyết Hiến pháp thì cũng chỉ được thực hiện theo quyết định của Quốc hội (bởi khoản 4 điều 124 dự thảo viết “Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định”). Trao hết quyền cho Quốc hội thì “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng các hình thức dân chủ trực tiếp…” như quy định tại điều 6 dự thảo bằng cách nào?

Thông thường, ở nhiều nước, nguy cơ lạm quyền của Quốc hội sẽ được kiểm soát mạnh nhất bởi các chế định quyền lực độc lập khác là Tòa án Hiến pháp và nguyên thủ quốc gia. Một Tòa án Hiến pháp độc lậpcó chức năng phán xét để hủy bỏ những đạo luật vi hiến cùng với một nguyên thủ quốc gia có quyền phủ quyết (hoặc đề  nghị Quốc hội xem xét lại một đạo luật đã được thông qua) sẽ là những chế định kiểm soát hữu hiệu hoạt động của Quốc hội, tránh những quyết định không có lợi cho dân từ cơ quan lập pháp.

Thiết nghĩ, đây là một trong những nguyên tắc cần được nghiên cứu, tiếp thu để quy định vào dự thảo. Theo dõi các hội nghị, hội thảo trong thời gian qua, tôi thấy quy định tại điều 120 dự thảo rằng Hội đồng Hiến pháp chỉ có quyền “kiến nghị Quốc hội xem xét lại văn bản quy phạm pháp luật của mình khi phát hiện có vi phạm Hiến pháp” đã bị đại đa số chuyên gia không đồng tình, bởi nó trái với nguyên tắc kiểm soát quyền lực phổ biến trên thế giới.

Chính phủ: hành chính hay hành pháp?

Điều 99 dự thảo viết: “Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước”.

Nhiều người nghiên cứu pháp luật bày tỏ sự ngạc nhiên trước quy định này, bởi viết như vậy thì không rõ được Chính phủ là “là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất…, là cơ quan chấp hành của Quốc hội” hay là cơ quan “thực hiện quyền hành pháp”. Bởi một Chính phủ hành chính sẽ rất khác một Chính phủ hành pháp.

Chính phủ hành chính là một Chính phủ thừa hành, chấp hành một cách thụ động các quyết định của Quốc hội. Còn Chính phủ hành pháp là Chính phủ chủ động, linh động trong điều hành kinh tế – xã hội, chủ động đề xuất chính sách, pháp luật và chịu trách nhiệm cao nhất với các đề xuất đó. Người ta nói, sự phát triển kinh tế – xã hội của một quốc gia phụ thuộc rất lớn vào tính năng động và chịu trách nhiệm của Chính phủ. Nếu Quốc hội đã được trao quyền lập pháp, thì Chính phủ phải được trao quyền hành pháp thì mới đảm bảo điều kiện “kiểm soát lẫn nhau”, tức quyền lực hành pháp kiểm soát ngược lại quyền lực lập pháp.

Ví dụ, với tư cách là cơ quan thực hiện quyền hành pháp, Chính phủ có quyền chủ động đề xuất Quốc hội thông qua một đạo luật có nội dung “A” để phục vụ công tác quản lý, nếu Quốc hội không chấp thuận dự luật đó có nội dung “A” mà lại muốn dự luật có nội dung “B” thì Chính phủ phải có quyền bảo lưu quan điểm của mình, tức là có quyền rút lại dự luật.

Nhưng nếu chỉ là cơ quan hành chính, cơ quan chấp hành của Quốc hội, thì Chính phủ muốn “A” nhưng Quốc hội quyết “B” thì Chính phủ vẫn phải tuân thủ (điều này có thể dẫn đến hệ quả: Chính phủ không thể thực hiện nội dung “B” vì Chính phủ đã tính toán là “A” mới đảm bảo khả thi). Chính phủ đề xuất “A”, Quốc hội quyết định “B”, nếu Chính phủ không thực hiện được “B” mà bị Quốc hội chế tài thì vô lý. Thực tế hiện nay cho thấy, không ít cái sai, thiếu thực tế, không khả thi rất khó tìm được “địa chỉ” trách nhiệm, bởi không rõ vai trò hành chính và hành pháp của Chính phủ.

Rõ ràng, một Chính phủ hành pháp sẽ tốt hơn cho việc đảm bảo cơ chế kiểm soát quyền lực, tạo ra cơ chế “dám làm dám chịu” và trách nhiệm sẽ rõ ràng hơn.

Bảo Linh
vietnamnet.vn

Làm rõ cam kết pháp lý của Đảng trước dân

Tháng Tám 19, 2013 Bình luận đã bị tắt

 – Đảng không có quyền lực và lợi ích nào khác ngoài quyền lực và lợi ích của nhân dân – TS Hồ Bá Thâm góp ý cho điều 4 dự thảo Hiến pháp sửa đổi.

>> Thời điểm chín muồi xây dựng luật về Đảng
>> Hiến pháp nên đề cập về Đảng thế nào?

Tại hội nghị lấy ý kiến sửa Hiến pháp 1992 do Văn phòng Quốc hội, Tạp chí nghiên cứu lập pháp và ĐH Luật TP.HCM tổ chức ngày 28/2, TS Hồ Bá Thâm – nguyên Trưởng ban Triết học và Chính trị – Viện Nghiên cứu và phát triển TP.HCM cho rằng, cần làm rõ ràng hơn sự cam kết pháp lý của Đảng trước nhân dân. VietNamNet trích đăng ý kiến của ông.

Tôi ủng hộ và tán thành cơ bản điều 4 trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Tôi thấy cần có góp ý điều chỉnh và bổ sung theo hướng giới hạn quyền lực, giám sát quyền lực và trách nhiệm của Đảng trước nhân dân, trước Nhà nước và xã hội. Cần có quy định pháp lý cơ bản ràng buộc quyền, trách nhiệm qua lại giữa Đảng và nhân dân.

Hơn nữa cần làm rõ, ghi nhận Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền chứ không chỉ là lãnh đạo. Nói “đảng cầm quyền” rộng hơn, chính xác hơn, rõ ràng và minh bạch hơn nói “Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.

Theo tôi, trong điều 4 (sửa đổi) có ý chưa đủ, chưa rõ hay khó xác định. Chẳng hạn như Đảng gắn bó với nhân dân thì “gắn bó” là thế nào? Sao không ghi là “dựa vào dân, trọng dân, lắng nghe dân…”. Và cũng không nên ghi một ý của điều khoản quá dài, nhiều ý khác nhau hoặc quá lệ thuộc vào câu chữ của Cương lĩnh, mang văn phong nghị quyết hơn là văn phong Hiến pháp. Phải giữ vững bản chất vấn đề nhưng cần mềm hóa câu chữ và chuyển hóa thành ngôn ngữ luật pháp một cách phổ biến.

Ông Hồ Bá Thâm: Đảng cần có cơ chế độc lập kiểm soát quyền lực của Đảng từ bên trong và bên ngoài, phát huy dân chủ, chống độc đoán, chuyên quyền.Ảnh: Tá Lâm

Với tinh thần đó, tôi đề nghị bổ sung điều 4 cho rõ như sau:

1. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong và đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc; là trung tâm đoàn kết và hòa hợp dân tộc, thực hành dân chủ, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Đảng không có quyền lực và lợi ích nào khác ngoài quyền lực và lợi ích của nhân dân.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng yêu nước và vì CNXH, vì chủ nghĩa quốc tế chân chính, vận dụng và phát huy tinh thần sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng; đồng thời kế thừa, phát huy tinh hoa văn hóa, tư tưởng của dân tộc, của nhân loại và thời đại, xây dựng hệ thống giá trị tư tưởng tiên tiến, phát triển trí tuệ, xứng đáng là đạo đức là văn minh.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng lãnh đạo nhân dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam và chế độ XHCN. Đồng thời là đảng cầm quyền, Đảng biến đường lối và nghị quyết của Đảng và ý chí của nhân dân thành quy phạm pháp luật để thực thi quyền lực nhà nước trong quản lý phát triển xã hội: Vì dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

4. Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật và gương mẫu thực hiện Hiến pháp và pháp luật. Đảng phải tôn trọng Nhà nước, đảng không được bao biện, làm thay công việc của Nhà nước và của đoàn thể.

5. Đảng kiểm tra, giám sát cán bộ đảng viên trong bộ máy nhà nước về việc thực hiện đường lối, nghị quyết của Đảng và về việc thực hành đạo đức cách mạng, chống đặc quyền, đặc lợi, tham nhũng, lãng phí.

6. Đảng tập trung xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên để giới thiệu với nhân dân bầu vào các vị trí đại diện của Nhà nước và đoàn thể, hoặc để được bổ nhiệm vào các cơ quan nhà nước và đoàn thể. Đảng tôn trọng, trân trọng cán bộ ngoài Đảng và cán bộ ngoài Đảng bình đẳng với cán bộ là đảng viên.

7. Đảng phải có cơ chế lắng nghe và phản hồi ý kiến góp ý, phản biện của nhân dân; Đảng tin dân, kính trọng dân, dựa vào dân, làm lợi cho nhân dân. Có cơ chế để nhân dân tham gia xây dựng Đảng và phát triển đất nước.

8. Đảng chịu sự giám sát của nhân dân. Công dân, đại diện nhân dân giám sát quá trình ra quyết định, hệ quả các quyết định của Đảng liên quan tới công dân và quốc gia; có quyền kiến nghị, tỏ thái độ tán thành hay không tán thành về quyết định ấy hoặc kiến nghị xử lý… hoặc qua bỏ phiếu tín nhiệm của nhân dân.

9. Đảng chịu trách nhiệm trước nhân dân về quyết định của mình. Cơ quan đảng phải có trách nhiệm giải thích, giải trình, hoặc thay đổi quyết định sai trái, xử lý những người sai phạm, từ chức cá nhân hoặc chịu truy tố… tùy theo mức độ sai phạm.

10. Là đảng cầm quyền, Đảng nắm và sử dụng quyền lực nhà nước, phát huy cao nhất quyền lực của nhân dân, vì nhân dân, Đảng cần có cơ chế độc lập kiểm soát quyền lực của Đảng từ bên trong và bên ngoài, phát huy dân chủ, chống độc đoán, chuyên quyền, Đảng cầm quyền theo Hiến pháp và luật pháp và chịu trách nhiệm trước Hiến pháp và luật pháp.

Hiện nay, chưa có luật về Đảng và nếu không ra luật về Đảng thì quy định như vậy ở điều 4 mới có tính khả thi và đủ mức cơ bản cần thiết về mức độ xác lập pháp về quyền, trách nhiệm nghĩa vụ của Đảng, phòng ngừa bệnh lạm quyền, suy thoái của đảng cầm quyền. Theo tôi, nhất thiết phải xây dựng luật về Đảng thì mới có khả năng phòng ngừa điều này.

Tá Lâm (lược ghi)
vietnamnet.vn

Điều chỉnh, bổ sung Quy hoạch khoáng sản làm vật liệu xây dựng

Tháng Tám 18, 2013 Bình luận đã bị tắt

(Chinhphu.vn) – Tại Quyết định 45/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Điều chỉnh, bổ sung Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng khoáng sản làm vật liệu xây dựng ở Việt Nam đến năm 2020.

Ảnh minh họa

Theo Quyết định mới ban hành, các loại khoáng sản làm nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng được quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng đến năm 2020 trong phạm vi dự án, bao gồm: Cao lanh, đất sét trắng, fenspat, sét chịu lửa, cát trắng, đôlômit, đá vôi, đá ốp lát.

Như vậy, so với quy định cũ tại Quyết định 152/2008/QĐ-TTg, khoáng sản bentonit được điều chỉnh đưa ra ngoài quy hoạch và khoáng sản đá vôi được đưa vào quy hoạch.

Bộ Công Thương được giao nhiệm vụ xem xét điều chỉnh, bổ sung khoáng sản bentonit vào quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng khoáng sản làm khoáng chất công nghiệp.

Tổng số mỏ làm nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng trên cả nước đã điều chỉnh như sau: Cao lanh 378 mỏ, Fenspat 85 mỏ, cát trắng 85 mỏ, Đôlômít 82 mỏ, đá vôi 351 mỏ, đá ốp lát 410 mỏ.

Nhu cầu khối lượng khoáng sản cần mở rộng khai thác, chế biến trong giai đoạn từ 2010 – 2020 như sau: Cao lanh 960 nghìn tấn (quy định cũ tại Quyết định 152/2008/QĐ-TTg là 263 nghìn tấn); cát trắng 1.000 nghìn tấn (quy định cũ 540 nghìn tấn); đá khối 700 nghìn m3 (quy định cũ 335 nghìn m3);…

Đối với các mỏ khoáng sản làm vật liệu xây dựng đã được ghi trong các Phụ lục II và III kèm theo Quyết định số 152/2008/QĐ-TTg ngày 28/11/2008 mà không bị điều chỉnh tại Quyết định 45/QĐ-TTg, vẫn có giá trị thực hiện.

Hoàng Diên

Nguồn: baodientu.chinhphu.vn
Vkyno (st)

Chuyên mục:Nhân quyền

Dự kiến điều chỉnh phụ cấp công vụ từ 10% lên 25%

Tháng Tám 18, 2013 Bình luận đã bị tắt

(Chinhphu.vn) – Bộ Nội vụ đang dự thảo Nghị định sửa đổi Điều 3 Nghị định 57/2011/NĐ-CP ngày 7/7/2011 của Chính phủ về chế độ phụ cấp công vụ. Theo đó, Bộ Nội vụ đề xuất điều chỉnh mức phụ cấp công vụ từ 10% lên 25%.

Trước đó, theo Nghị định số 57/2011/NĐ-CP, một số đối tượng cán bộ, công chức đã được hưởng phụ cấp công vụ bằng 10% mức lương hiện hưởng cộng phụ cấp chức vụ lãnh đạo và phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có) hoặc phụ cấp quân hàm từ ngày 1/5/2011.

Ngoài ra, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Nghị quyết số 14/2011/QH13 ngày 10/11/2011 trong đó có quy định “Từ ngày 1/5/2012, thực hiện mức lương tối thiểu 1.050.000 đồng/tháng, phụ cấp công vụ 25% cho cán bộ, công chức; lương hưu và trợ cấp ưu đãi người có công tăng bằng tốc độ tăng lương tối thiểu”.

Vì vậy, việc xây dựng Nghị định của Chính phủ dự kiến điều chỉnh mức phụ cấp công vụ từ 10% lên 25% đối với cán bộ, công chức và người hưởng lương hoặc phụ cấp quân hàm trong lực lượng vũ trang cũng nhằm thực hiện Nghị quyết nêu trên của Quốc hội. Đây cũng là bước đi thực hiện cải cách chính sách tiền lương.

Trong dự thảo Nghị định của Chính phủ, Bộ Nội vụ đề xuất mức phụ cấp mới (25%) dự kiến được áp dụng kể từ ngày 1/5/2012.

Đối tượng hưởng phụ cấp công vụ

Theo Nghị định 57/2011/NĐ-CP, các đối tượng được áp dụng chế độ phụ cấp công vụ nói trên là cán bộ, công chức, người hưởng lương hoặc phụ cấp quân hàm từ ngân sách nhà nước làm việc trong các cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội ở Trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, ở xã, phường, thị trấn và lực lượng vũ trang.

Cụ thể gồm:

– Cán bộ theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Luật Cán bộ, công chức;

– Công chức theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Luật Cán bộ, công chức và các Điều 3,4,5,6,7,8,9,10 và 12 Nghị định số 6/2010/NĐ-CPngày 25/1/2010 của Chính phủ (không bao gồm công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý đơn vị sự nghiệp công lập);

– Cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn quy định tại khoản 3 Điều 4 Luật Cán bộ, công chức và Điều 3 Nghị định số 92/2009/NĐ-CPngày 22/10/2009;

– Người làm việc theo hợp đồng lao động quy định tại Nghị định 68/2000/NĐ-CP ngày 17/11/2000 (không bao gồm người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập);

– Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, chiến sĩ nghĩa vụ và công nhân, viên chức quốc phòng, lao động hợp đồng thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam;

– Sĩ quan, hạ sĩ quan hưởng lương, hạ sĩ quan, chiến sĩ phục vụ có thời hạn; công nhân, nhân viên công an và lao động hợp đồng thuộc Công an nhân dân;

– Người làm công tác cơ yếu trong tổ chức cơ yếu.

Mời bạn đọc xem toàn văn dự thảo Nghị định và góp ý.

Đức Mạnh

Nguồn: baodientu.chinhphu.vn
Vkyno (st)

Chuyên mục:Nhân quyền

Sửa đổi một số quy định hướng dẫn doanh nghiệp nước ngoài hoạt động về y tế tại Việt Nam

Tháng Tám 18, 2013 Bình luận đã bị tắt

(Chinhphu.vn) – Bộ Y tế vừa ban hành Thông tư sửa đổi một số quy định hướng dẫn doanh nghiệp nước ngoài đăng ký hoạt động về thuốc và nguyên liệu làm thuốc tại Việt Nam và hướng dẫn các công ty nước ngoài đăng ký hoạt động về vắc xin, sinh phẩm y tế với Việt Nam.

Ảnh minh họa

Thông tư mới đã sửa đổi, bổ sung một số quy định hướng dẫn doanh nghiệp nước ngoài đăng ký hoạt động về thuốc và nguyên liệu làm thuốc tại Việt Nam tại Thông tư số 17/2001/TT-BYT ngày 1/8/2001.

Cụ thể, về điều kiện để doanh nghiệp nước ngoài đăng ký hoạt động về thuốc và nguyên liệu làm thuốc tại Việt Nam, đối với doanh nghiệp đăng ký lần đầu, ngoài một số điều kiện về hồ sơ, kinh nghiệm…, quy định mới không yêu cầu điều kiện doanh số kinh doanh về thuốc, nguyên liệu làm thuốc tối thiểu trong năm gần nhất như quy định cũ tại Thông tư 17/2001/TT-BYT.

Bên cạnh đó, thời gian hoàn thành thủ tục cấp phép cũng được rút ngắn hơn. Thay vì thời gian 3 tháng như quy định cũ, Thông tư mới quy định, trong thời hạn 30 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Bộ Y tế sẽ xem xét, cấp giấy phép cho doanh nghiệp.

Đồng thời, quy định mới cũng tăng thời hạn có giá trị của giấy phép hoạt động về thuốc, nguyên liệu thuốc của doanh nghiệp. Cụ thể, thay vì 2 năm như quy định cũ, giấy phép sẽ có giá trị 5 năm kể từ ngày ký. Nếu doanh nghiệp muốn tiếp tục hoạt động sẽ phải làm thủ tục đăng ký lại trước khi giấy phép hết hạn 3 tháng.

Tương tự, đối với quy định hướng dẫn các công ty nước ngoài đăng ký hoạt động về vắc xin, sinh phẩm y tế với Việt Nam tại Thông tư số 10/2003/TT-BYT, quy định mới cũng rút ngắn thời gian cấp phép từ 3 tháng xuống còn 30 ngày và gia tăng thời hạn giá trị giấy phép từ 2 năm thành 5 năm.

Tuệ Văn

Nguồn: baodientu.chinhphu.vn
Vkyno (st)

Chuyên mục:Nhân quyền

Đề án tái cấu trúc các công ty chứng khoán

Tháng Tám 18, 2013 Bình luận đã bị tắt

(Chinhphu.vn) – Tái cấu trúc các công ty chứng khoán để nâng cao chất lượng hoạt động, năng lực tài chính, quản trị doanh nghiệp và khả năng kiểm soát rủi ro của các công ty chứng khoán. Trên cơ sở đó, từng bước thu hẹp số lượng các công ty chứng khoán.

Ảnh minh họa

Đây là một trong những nội dung của Đề án tái cấu trúc các công ty chứng khoán vừa được Bộ Tài chính quyết địnhphê duyệt.

Theo đó, tái cấu trúc các công ty chứng khoán cũng nhằm mục đích tăng cường khả năng, hiệu quả quản lý, giám sát đối với hoạt động công ty chứng khoán; đồng thời mở cửa thị trường dịch vụ tài chính theo lộ trình hội nhập đã cam kết.

Việc tái cấu trúc các công ty chứng khoán được thực hiện theo lộ trình, có bước đi thận trọng, chắc chắn, không làm xáo trộn hoạt động của thị trường chứng khoán cũng như các hoạt động kinh tế xã hội của đất nước, đảm bảo lợi ích hợp pháp khách hàng.

Rà soát, phân nhóm công ty chứng khoán theo mức độ rủi ro

Về phương án tái cấu trúc, trên cơ sở các quy định hiện hành cũng như kết quả kinh doanh đã kiểm toán của các công ty chứng khoán, sẽ tiến hành rà soát phân nhóm các công ty chứng khoán theo mức độ rủi ro giảm dần dựa trên 2 chỉ tiêu: Vốn khả dụng/tổng rủi ro (bao gồm rủi ro thị trường, rủi ro thanh toán, và rủi ro hoạt động) và tỷ lệ lỗ lũy kế/vốn điều lệ. Theo đó, sẽ có 3 nhóm công ty chứng khoán.

Nhóm 1 – nhóm bình thường: Nhóm này bao gồm các công ty chứng khoán có tỷ lệ vốn khả dụng/tổng rủi ro trên 150% và có lãi hoặc lỗ lũy kế dưới 30% vốn điều lệ.

Nhóm 2 – nhóm kiểm soát: Nhóm này bao gồm các công ty chứng khoán có tỷ lệ vốn khả dụng/tổng rủi ro dưới 150% tới trên 120% và có lỗ lũy kế từ 30% đến 50% vốn điều lệ.

Nhóm 3 – nhóm kiểm soát đặc biệt: Nhóm này bao gồm các công ty chứng khoán có tỷ lệ vốn khả dụng/tổng rủi ro dưới 120% và có lỗ lũy kế từ trên 50% vốn điều lệ.

Biện pháp tái cấu trúc

Bộ Tài chính cũng nêu rõ một số biện pháp tái cấu trúc các công ty chứng khoán.

Cụ thể, các biện pháp xử lý trước mắt (từ nay đến 1/4/2012), đối với những công ty chứng khoán có tỷ lệ vốn khả dụng/tổng rủi ro không đảm bảo quy định của Thông tư 226/2010/TT-BTC, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước sẽ yêu cầu các công ty chứng khoán này thực hiện chế độ báo cáo hàng tuần (đối với những công ty chứng khoán có tỷ lệ vốn khả dụng/tổng rủi ro dưới 150%), hàng ngày (đối với những công ty chứng khoán có tỷ lệ vốn khả dụng/tổng rủi ro dưới 120%).

Đồng thời, cử đoàn kiểm tra đến nắm tình hình hoạt động của công ty, nếu phát hiện công ty chứng khoán chưa thực hiện tách biệt tài sản của nhà đầu tư thì yêu cầu công ty chứng khoán thực hiện trong thời hạn tối đa 2 tháng; đề nghị Hội đồng quản trị (Hội đồng thành viên) xem xét, trình Đại hội đồng cổ đông (Chủ sở hữu) xem xét phương án tăng vốn điều lệ.

2 Sở Giao dịch chứng khoán, Trung tâm Lưu ký chứng khoán Việt Nam sẽ kiểm soát chặt chẽ vấn đề thanh toán giao dịch của công ty. Trường hợp liên tục vi phạm thiếu tiền thanh toán, lạm dụng tiền gửi của khách hàng, sẽ xem xét rút phép nghiệp vụ môi giới chứng khoán theo quy định pháp luật.

Các biện pháp áp dụng theo nhóm từ sau ngày 1/4/2012, đối với nhóm 1-nhóm bình thường: Tiếp tục rà soát và giám sát tình hình tài chính của nhóm này để có giải pháp kịp thời nếu thị trường tiếp tục khó khăn.

Đối với nhóm 2-nhóm kiểm soát và nhóm 3-nhóm kiểm soát đặc biệt:áp dụng các nhóm giải pháp hành chính và kinh tế theo quy định của Thông tư 226/2010/TT-BTC.

Biện pháp triển khai từ sau năm 2012, tăng cường năng lực quản trị và hoạt động của các công ty chứng khoán dựa trên ba trụ cột chính: Quy định về mức độ đủ vốn; Quy định về hướng dẫn thông lệ khuôn khổ quản lý rủi ro cho các công ty chứng khoán; Đánh giá, xếp hạng các tổ chức kinh doanh chứng khoán theo thông lệ quốc tế từ đó phân loại và giám sát các tổ chức này.

Thu Nga

Nguồn: baodientu.chinhphu.vn
Vkyno (st)

Chuyên mục:Nhân quyền