Lưu trữ

Archive for the ‘Chính trị – Xã hội’ Category

Việt Nam phản đối việc Trung Quốc đơn phương thi hành Lệnh cấm đánh bắt cá ở Biển Đông

Tháng Năm 15, 2013 Bình luận đã bị tắt

(ĐCSVN) – Theo Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lương Thanh Nghị, việc Trung Quốc đơn phương thi hành Lệnh cấm đánh bắt cá ở Biển Đông với phạm vi bao gồm cả một số vùng biển của Việt Nam là vi phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa…

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lương Thanh Nghị

Ngày 15/5/2013, trả lời câu hỏi của phóng viên đề nghị cho biết phản ứng của Việt Nam trước việc Trung Quốc sẽ thi hành Lệnh cấm đánh bắt cá ở Biển Đông năm 2013 từ 12 giờ ngày 16/5/2013 đến 12 giờ ngày 01/8/2013 với phạm vi bao gồm cả một số vùng biển của Việt Nam, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lương Thanh Nghị nêu rõ:

“Việc Trung Quốc đơn phương thi hành Lệnh cấm đánh bắt cá ở Biển Đông với phạm vi bao gồm cả một số vùng biển của Việt Nam là vi phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982, không phù hợp với tinh thần Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC).

Việt Nam phản đối và coi quyết định đơn phương nói trên của Trung Quốc là vô giá trị.”

* Cùng ngày, trả lời câu hỏi của phóng viên đề nghị cho biết phản ứng của Việt Nam trước các vụ đánh bom ngày 11/5/2013 tại thị trấn Reyhanli, Thổ Nhĩ Kỳ làm ít nhất 45 người thiệt mạng và hơn 100 người khác bị thương, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lương Thanh Nghị nêu rõ:

“Việt Nam lên án mạnh mẽ các vụ đánh bom ngày 11/5/2013 tại thị trấn Reyhanli, Thổ Nhĩ Kỳ. Chúng tôi xin gửi lời thăm hỏi và chia buồn sâu sắc đến Chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ và gia đình các nạn nhân. Chúng tôi cho rằng thủ phạm gây ra các vụ đánh bom trên cần phải bị nghiêm trị.”

Mạnh Hùng
dangcongsan.vn

Chuyên mục:Chính trị - Xã hội

Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi): “Đảm bảo quyền sử dụng đất cho phụ nữ, người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số..”

Tháng Năm 11, 2013 Bình luận đã bị tắt

(ĐCSVN) – Nói về các điểm mới nổi bật của Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi), tại cuộc giao lưu trực tuyến “Đóng góp ý kiến vào Dự thảo Luật đất đai (sửa đổi) với Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 9/5, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Nguyễn Mạnh Hiển cho biết: Dự thảo lần này có nhiều điểm mới, trong đó đặc biệt quan tâm đến việc đảm bảo quyền sử dụng đất cho nhóm người dễ bị tổn thương như phụ nữ, người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số…

Theo Thứ trưởng Nguyễn Mạnh Hiển, Dự thảo đã quy định rõ ràng và cụ thể hơn quyền và trách nhiệm của Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu toàn dân đối với đất đai, thống nhất quản lý nhà nước đối với đất đai; quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất phù hợp với từng đối tượng, từng hình thức sử dụng đất.

Thứ trưởng Nguyễn Mạnh Hiển (ngồi giữa) tại buổi giao lưu trực tuyến
ngày 9/5 (Ảnh: Thế Dương)

Dự thảo cũng hoàn thiện chính sách, pháp luật đất đai đối với khu vực nông nghiệp theo hướng mở rộng thời hạn giao đất nông nghiệp trong hạn mức cho hộ gia đình, cá nhân; mở rộng hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp; khuyến khích việc nhận góp vốn, cho thuê quyền sử dụng đất để tập trung đất đai nhằm tạo điều kiện đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn; quy định chặt chẽ chế độ sử dụng đất trồng lúa, đất rừng nhằm đảm bảo mục tiêu an ninh lương thực quốc gia và bảo vệ môi trường; tăng cường vận hành các quan hệ đất đai theo cơ chế thị trường thông qua việc hạn chế các trường hợp được Nhà nước giao đất, chuyển cơ bản sang áp dụng hình thức thuê đất; thực hiện cơ chế đấu giá quyền sử dụng đất khi giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất; thực hiện định giá đất theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước để tính thu các nghĩa vụ tài chính khi giao đất, cho thuê đất, khi cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, tính bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất.

Dự thảo cũng đã hoàn thiện hơn cơ chế nhằm phát huy nguồn lực từ đất đai thông qua quy định Nhà nước chủ động thu hồi đất theo kế hoạch sử dụng đất, tạo quỹ đất “sạch” để đấu giá quyền sử dụng đất; mở rộng các đối tượng thuê đất trả tiền một lần cho cả thời gian thuê; tạo sự minh bạch trong quản lý, sử dụng đất nhằm phòng, chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, góp phần làm giảm các khiếu kiện trong lĩnh vực đất đai, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai thông qua việc bổ sung quy định về hệ thống thông tin đất đai, cơ sở dữ liệu đất đai, quyền tiếp cận thông tin đất đai; hoàn thiện các quy định nhằm tăng cường sự tham gia của người dân trong quá trình lập, tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư nhằm công khai, minh bạch trong quản lý, sử dụng đất, góp phần phòng, chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí và làm giảm các khiếu kiện trong lĩnh vực đất đai; đồng thời, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai tạo sự bình đẳng hơn trong việc tiếp cận đất đai, thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài thông qua quy định thu hồi đất, giao đất có thu tiền sử dụng đất.

Đặc biệt dự thảo lần này quan tâm đến việc đảm bảo quyền sử dụng đất cho nhóm người dễ bị tổn thương như phụ nữ, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số…

Tuy nhiên cũng có ý kiến gửi đến buổi đối thoại trực tuyến cho rằng: mặc dù Dự thảo Luật đã chú ý tới nội dung bố trí đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số nhưng chưa thấy đề cập tới nội dung về đất dành cho các khu sinh hoạt cộng đồng dân cư của bà con…

Về vấn đề này, bà Hoàng Thị Vân Anh, Vụ trưởng Vụ Chính sách và Pháp chế cho biết, tiếp thu ý kiến của nhân dân, Ban soạn thảo đã bổ sung quy định vào dự thảo Luật theo hướng về phân loại đất. Trong đó, đất công cộng có đất phục vụ cho sinh hoạt chung của cộng đồng và khi lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phải ưu tiên bố trí quỹ đất để xây dựng các công trình công cộng phục vụ hoạt động chung của cộng đồng dân cư, trong đó bao gồm cả các công trình phục vụ hoạt động văn hóa của cộng đồng các dân tộc thiểu số…

Cũng nhằm làm rõ hơn nội dung về quy định hộ gia đình, cá nhân đồng bào dân tộc thiểu số được giao đất theo chính sách hỗ trợ của Nhà nước thì chỉ được thực hiện quyền chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất sau 10 năm kể từ ngày được giao đất nhằm đảm bảo ổn định đất ở, đất sản xuất lâu dài cho đồng bào, bà Hoàng Thị Vân Anh cho biết thêm: việc hỗ trợ đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số là chính sách xã hội quan trọng, đang được triển khai trong thời gian vừa qua.

Tuy nhiên, hiệu quả thực hiện chính sách này vẫn còn hạn chế do đồng bào chuyển nhượng quyền sử dụng đất được Nhà nước hỗ trợ dẫn đến tình trạng không có đất hoặc thiếu đất sản xuất. Do đó, pháp luật đất đai quy định đồng bào được giao đất theo chính sách hỗ trợ của Nhà nước thì chỉ được thực hiện quyền chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất sau 10 năm kể từ ngày được giao đất nhằm đảm bảo ổn định đất ở, đất sản xuất lâu dài cho đồng bào.

Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) quan tâm đến quyền sử dụng đất cho
phụ nữ, người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số… (Ảnh: Trần Hoà)

Nói về những điểm mới trong Dự thảo Luật đất đai, Cục trưởng Cục Kinh tế và Phát triển quỹ đất, Tổng cục Quản lý đất đai Bùi Ngọc Tuân cũng cho biết: Dự thảo lần này đã có quy định về việc định giá đất theo giá thị trường.

Cụ thể, theo phương án 1: Chính phủ quy định giá đất và bảng giá. Bảng giá trong trường hợp này sẽ căn cứ theo khung giá của Chính phủ, nguyên tắc và phương pháp định giá thì UBND tỉnh xây dựng để tính tiền sử dụng đất khi Nhà nước giao đất, tính tiền thuê đất khi Nhà nước cho thuê đất; thu thuế, phí, lệ phí, tính tiền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và một số bảng phí khác.

Ưu điểm của phương án này là chỉ có một giá. Tuy nhiên, hạn chế của nó là trong trường hợp Nhà nước giao đất và tính tiền sử dụng đất, cho thuê đất và tính tiền thuê đất, hoặc khi Nhà nước thu hồi đất mà phải bồi thường cho người có đất bị thu hồi sẽ có khoảng trễ chênh với giá thị trường tại thời điểm, gây thất thoát cho ngân sách Nhà nước. Trong trường hợp Nhà nước thu tiền sử dụng đất hoặc thu tiền thuê đất, hoặc trong trường hợp doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa người dân bị thu hồi đất mà được bồi thường sẽ gây thiệt hại cho người dân…

Còn theo phương án 2, khung giá là căn cứ để UBND cấp tỉnh xây dựng, ban hành bảng giá đất. Bảng giá này sẽ là căn cứ để tính các khoản tiền như: Tính tiền sử dụng đất khi Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân; Tính tiền thuê đất đối với trường hợp Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm không thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất thuê;Tính các khoản thuế liên quan đến đất đai; Tính phí và lệ phí trong quản lý, sử dụng đất đai; Tính tiền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai; Tiền bồi thường cho Nhà nước khi gây thiệt hại trong quản lý và sử dụng đất đai.

Ngoài ra, có 4 trường hợp phải xác định giá đất cụ thể và việc xác định giá đất cụ thể này do thuê tổ chức định giá đất độc lập định giá, Nhà nước chỉ thẩm định trước khi quyết định giá là: Tính tiền sử dụng đất khi Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất không thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất; công nhận quyền sử dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với tổ chức mà phải nộp tiền sử dụng đất; Tính tiền thuê đất đối với trường hợp Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê không thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất thuê; Tính giá trị quyền sử dụng đất khi cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước mà doanh nghiệp cổ phần sử dụng đất thuộc trường hợp Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất; Tính tiền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.

Ông Bùi Ngọc Tuân cũng cho biết thêm: Theo cơ sở lý luận và thực tiễn, giá đất thị trường là giá đất được hình thành từ kết quả của những giao dịch thực tế đã hoàn thành mang tính phổ biến giữa bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng trong điều kiện thương mại bình thường, không chịu tác động của các yếu tố gây tăng hoặc giảm giá đột biến không hợp lý, như: Đầu cơ, thiên tai, địch họa, khủng hoảng kinh tế, tài chính, thay đổi quy hoạch, chuyển nhượng trong tình trạng bị ép buộc, có quan hệ huyết thống hoặc có những ưu đãi và những trường hợp khác mà pháp luật quy định (khoản 2, Điều 1 Nghị định số 123/2007/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 188/2004/NĐ-CP). Trong Luật Đất đai (sửa đổi) lần này cũng sẽ cố gắng xây dựng giá đất theo cơ chế thị trường. Căn cứ mục đích sử dụng đất và quy hoạch bồi thường đất để xác định giá đất.

Kim Dung
dangcongsan.vn

Chuyên mục:Chính trị - Xã hội

Lào Cai: Gắn công tác dân tộc với thực hiện có hiệu quả các chương trình trọng tâm

Tháng Năm 11, 2013 Bình luận đã bị tắt

(ĐCSVN) Thực hiện tốt công tác dân tộc trong thời kỳ mới không những góp phần phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc mà còn góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội, giữ vững an ninh – quốc phòng, nâng cao mức sống cho đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lào Cai.

Tập trung nguồn lực đầu tư

UBND tỉnh Lào Cai trao giấy chứng nhận và tặng quà cho 168 người
có uy tín tiêu biểu trong đồng bào dân tộc thiểu số .(baolaocai.vn)

Lào Cai là tỉnh vùng cao, biên giới. Dân số toàn tỉnh trên 650 nghìn người, trong đó, dân tộc thiểu số chiếm tới 64,1%. Do đó, công tác dân tộc luôn được cấp uỷ đảng, chính quyền các cấp đặc biệt chú trọng.

Thực hiện Kết luận số 57-KL/TW ngày 03/01/2009 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện các Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX), trong đó có nội dung về công tác dân tộc, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lào Cai (khoá XIV) đã gắn việc thực hiện công tác dân tộc với thực hiện có hiệu quả 07 chương trình trọng tâm, được cụ thể hoá thành 27 đề án toàn khoá hướng về cơ sở nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội, giữ vững an ninh – quốc phòng, nâng cao mức sống cho đồng bào dân tộc thiểu số.

Đồng chí Phạm Văn Cường – Chủ tịch Hội đồng Nhân dân tỉnh Lào Cai cho biết: Tỉnh đã chú trọng lồng ghép nhiều chương trình mục tiêu quốc gia với các chương trình của địa phương cho vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, nhằm thúc đẩy nhanh công cuộc xoá đói giảm nghèo; thực hiện tốt các chương trình hỗ trợ của Nhà nước như: Trợ giá, trợ cước, sắp xếp ổn định dân cư…, đảm bảo cho nhân dân vùng cao, vùng dân tộc phát triển sản xuất, ổn định và cải thiện đời sống.

Do làm tốt công tác tập trung đầu tư nguồn lực phát triển cơ sở hạ tầng cho vùng nông thôn, vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đến nay, 100% các xã đã có đường ô tô đến trung tâm xã, có trạm y tế, có điện lưới quốc gia; đường giao thông liên thôn được phát triển mạnh, đáp ứng nhu cầu đi lại và lưu thông thị trường; các công trình thuỷ lợi được bê tông hoá, đảm bảo tưới tiêu cho 85% diện tích ruộng; 84% số hộ được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh…

Để chính sách phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số phát huy hiệu quả, công tác đầu tư cho giáo dục đặc biệt được chú trọng, Lãnh đạo Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh cho biết: Đến nay, 100% các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số đều có trường mầm non, tiểu học và trung học cơ sở; các thôn, bản ở xa trung tâm xã đều có điểm trường (phân hiệu); 9/9 huyện, thành phố đều có trường phổ thông dân tộc nội trú; chế độ, chính sách về giáo dục và đào tạo đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số được triển khai nghiêm túc.

Bên cạnh đó, công tác đào tạo nghề và giới thiệu việc làm cho người lao động được quan tâm thích đáng. Tỉnh đã dành nhiều kinh phí đầu tư trang thiết bị cho hệ thống dạy nghề ở tỉnh và các trung tâm ở huyện. Mỗi năm, đào tạo nghề cho hàng chục nghìn lao động, trong đó 70% là dân tộc thiểu số; có chính sách cho các doanh nghiệp ưu tiên tuyển dụng lao động là người dân tộc thiểu số vào làm việc, qua đó, thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao động của địa phương từ nông – lâm nghiệp sang công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Nhiều lao động dân tộc thiểu số ở các huyện Mường Khương, Bắc Hà, Si Ma Cai tham gia xuất khẩu lao động theo chủ trương của Chính phủ, góp phần xoá đói giảm nghèo.

Trong việc nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho đồng bào dân tộc thiểu số đã có những chuyển biến rõ nét: 100% xã, phường trên địa bàn tỉnh có trạm y tế và cán bộ y sĩ đa khoa; 95,6% thôn, bản có nhân viên y tế, cơ bản đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân. Thông qua tiếp cận các dịch vụ y tế và hưởng chính sách khám chữa bệnh miễn phí đã từng bước xoá bỏ hủ tục lạc hậu, nâng cao sức khoẻ cho đồng bào.

Theo Tiến sĩ Trần Hữu Sơn, Giám đốc Sở Văn hoá, Thể thao & Du lịch tỉnh, việc triển khai thực hiện Đề án “Bảo tồn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trên địa bàn tỉnh Lào Cai” đã được cụ thể hoá thành nhiều chương trình, dự án phù hợp với đặc điểm của địa phương, góp phần tích cực vào công cuộc xoá đói giảm nghèo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu sổ. Các hoạt động văn hoá thể thao, lễ hội mang đậm bản sắc dân tộc được duy trì tổ chức vào dịp đầu năm cũng như việc định kỳ 2 năm/lần tổ chức Đại hội thể thao các dân tộc thiểu số đã khôi phục các giá trị văn hoá truyền thồng của đồng bào. Đặc biệt, việc cải tạo tập quán lạc hậu trong đồng bào đã có bước chuyển biến tích cực, nhất là đã hạn chế việc thách cưới cao, cơ bản hạn chế được hôn nhân cận huyết thống, tình trạng người chết không cho vào áo quan được xoá bỏ. Cho đến nay, cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư” gắn với việc cải tạo tập tục lạc hậu đi vào chiều sâu đã được nhân dân tích cực hưởng ứng tham gia.

Tạo sức bật mới

Đạt được những kết quả trên chủ yếu là nhờ có chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, trong đó có chính sách an sinh xã hội đối với đồng bào dân tộc; Chương trình 168-Ctr/TU của Tỉnh ủy Lào Cai về việc thực hiện Kết luận 57-KL/TW của Bộ Chính trị được các cấp ủy, chính quyền địa phương vận dụng có hiệu quả vào tình hình thực tế và sự nỗ lực rất lớn của cộng đồng dân tộc trên địa bàn tỉnh.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn những khó khăn, hạn chế trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc ở địa phương. Đó là, công tác xoá đói, giảm nghèo chưa thật sự bền vững, tỷ lệ người nghèo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn cao; việc đầu tư các chương trình dự án có lúc còn dàn trải, một số công trình chất lượng kém, xuống cấp nhanh gây lãng phí và khó khăn cho nhân dân; việc hỗ trợ đồng bào tiêu thụ sản phẩm còn chưa được quan tâm triệt để…

Cho đến nay, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số còn thiếu, chưa tương xứng với tỉ lệ dân số, chưa cân đối giữa các ngành nghề do công tác xây dựng, quy hoạch, đào tạo cán bộ dân tộc thiểu số chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thực tế của địa phương. Công tác phát triển đoàn viên, hội viên địa bàn dân tộc thiểu số ở một số địa bàn còn thấp.

Hoạt động của cấp uỷ, chính quyền và các đoàn thể ở một số địa bàn vùng dân tộc thiểu số còn chậm đổi mới nội dung, phương thức hoạt động cũng như ý thức tự lực vươn lên thoát nghèo của một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số chưa cao là những vấn đề đặt ra trong thực tiễn, đòi hỏi phải có biện pháp giải quyết kịp thời.

Để công tác dân tộc đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của Đảng và Nhà nước ta, trong thời gian tới, cần có những giải pháp vượt trội nhằm tiếp tục thực hiện tốt Kết luận số 57-KL/TW của Bộ Chính trị; tiếp tục quán triệt và thực hiện có hiệu quả quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về công tác dân tộc gắn với việc thực hiện 27 đề án toàn khoá của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khoá XIV; thường xuyên kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết, đánh giá tình hình và kết quả thực hiện chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, nhất là ở cơ sở; xác định rõ trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền các cấp, các ngành trong việc phối hợp thực hiện chủ trương, chính sách dân tộc.

Tiếp tục đầu tư phát triển và hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc; đẩy mạnh công tác giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào; phát huy tính tự lực tự cường, khắc phục tình trạng trông chờ, ỷ lại của một bộ phận đồng bào vùng dân tộc thiểu số; phát huy tiềm năng và lợi thế của địa phương, phát triển đa dạng các mô hình kinh tế hộ theo hướng chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm, phát triển hàng hóa xuất khẩu.

Tập trung phát triển nguồn nhân lực, quy hoạch, đào tạo cán bộ trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số tương xứng với tỷ lệ dân số, nâng cao chất lượng dạy nghề và giới thiệu việc làm cho thanh niên dân tộc thiểu số; tăng cường việc sưu tầm, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của các dân tộc; tăng cường công tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân; nâng cao thời lượng các chương trình phát thanh – truyền hình bằng tiếng dân tộc.

Đặc biệt, cần củng cố kiện toàn hệ thống chính trị ở cơ sở; thực hiện tốt chính sách phát huy vai trò của người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số ở cơ sở; tiếp tục làm tốt công tác phát triển Đảng trong vùng đồng bào dân tộc; tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao kiến thức quốc phòng – an ninh cho người dân; đấu tranh, ngăn chặn kịp thời các hoạt động lợi dung vấn đề dân tộc, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội./.

Nguyễn Thị Hồng Minh (CTV)
dangcongsan.vn

Chuyên mục:Chính trị - Xã hội

Bộ trưởng Quốc phòng Việt-Trung gặp song phương

Tháng Năm 9, 2013 Bình luận đã bị tắt

Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh và Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Thường Vạn Toàn. (Ảnh: Quân Thủy/TTXVN)

Bên lề Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN lần thứ 7 (ADMM-7) tại thủ đô Bandar Seri Begawan của Brunei, tối 7/5, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh đã gặp song phương Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Thường Vạn Toàn.

Tại cuộc gặp, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc khẳng định Trung Quốc và Việt Nam là hai nước láng giềng gần gũi, có nhiều nét tương đồng, nhất là trong lịch sử chống ngoại xâm, giành độc lập cho dân tộc; hai nước đã và đang đẩy mạnh công cuộc xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, giành được nhiều thành tựu quan trọng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

Bộ trưởng Thường Vạn Toàn nêu rõ Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc trân trọng mối quan hệ gắn bó, tình đoàn kết hữu nghị giữa hai nước do Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt nền móng xây dựng. Bộ trưởng đánh giá cao việc Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng lần thứ nhất và thiết lập cơ chế ADMM+. Trung Quốc rất coi trọng quan hệ với Việt Nam và sẽ tiếp tục thúc đẩy quan hệ giữa hai nước nói chung, quan hệ quốc phòng nói riêng lên một bước mới.

Bộ trưởng Phùng Quang Thanh chúc mừng thành công Đại hội lần thứ 18 Đảng Cộng sản Trung Quốc, chúc mừng đồng chí Thường Vạn Toàn được cử giữ chức Ủy viên Quân ủy Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Uỷ viên Quốc vụ viện, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Đại tướng bày tỏ niềm xúc động và chia sẻ trước những tổn thất lớn mà thiên tai, thảm họa gây ra đối với nhân dân một số địa phương của Trung Quốc, đặc biệt là hậu quả trận động đất xảy ra tại Tứ Xuyên tháng Tư vừa qua.

Bộ trưởng Phùng Quang Thanh khẳng định: Đảng, Chính phủ, nhân dân và Quân đội nhân dân Việt Nam luôn trân trọng, biết ơn sự giúp đỡ to lớn, có hiệu quả của Đảng, Chính phủ, nhân dân và Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc trong hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc trước đây cũng như trong công cuộc xây dựng đất nước ngày nay. Việt Nam luôn coi trọng phát triển quan hệ láng giềng hữu nghị tốt đẹp và bền vững lâu dài với Trung Quốc. Việc tăng cường hợp tác, đoàn kết hữu nghị, hiểu biết tin cậy lẫn nhau giữa Việt Nam và Trung Quốc là nhân tố quan trọng để giữ gìn hòa bình, ổn định trong khu vực.

Bộ trưởng Phùng Quang Thanh nhấn mạnh giữa Việt Nam và Trung Quốc còn một số vấn đề tồn tại trên biển do lịch sử để lại. Hai bên cần nghiêm chỉnh tuân thủ Thỏa thuận và nhận thức chung mà lãnh đạo cấp cao hai nước đã đạt được, cùng nhau giải quyết tranh chấp trên biển thông qua đàm phán hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC) và nỗ lực thúc đẩy xây dựng Bộ Quy tắc về cách ứng xử của các bên ở biển Đông (COC) giữa ASEAN và Trung Quốc…

Về hợp tác quốc phòng, hai bên cần tiếp tục thúc đẩy chiến lược đối thoại quốc phòng, đẩy mạnh tiếp xúc, giao lưu, tham vấn ở các cấp để tăng cường hiểu biết, tin cậy lẫn nhau; sớm triển khai đường dây nóng ở cấp Bộ Quốc phòng và cấp quân khu, Bộ đội Biên phòng; trao đổi về đào tạo học viên.

Bộ trưởng Phùng Quang Thanh đã trao cho Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc thư mời thân nhân gia đình các đồng chí Trần Canh, Vi Quốc Thanh, Nguyễn Sơn và các cựu chiến binh Trung Quốc từng sang giúp đỡ Việt Nam trong các cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước trước đây sang thăm Việt Nam.

Bộ trưởng trân trọng mời Bộ trưởng Thường Vạn Toàn cùng phu nhân sang thăm hữu nghị chính thức Việt Nam và đề nghị Bộ trưởng Thường Vạn Toàn chuyển lời mời hai đồng chí Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương Trung Quốc: Phạm Trường Long, Hứa Kỳ Lượng và các đồng chí lãnh đạo khác của Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc sang thăm Việt Nam. Bộ trưởng Thường Vạn Toàn vui vẻ nhận lời mời và sẽ sang thăm hữu nghị chính thức Việt Nam vào thời điểm thích hợp./.

(TTXVN)
vietnamplus.vn

Chuyên mục:Chính trị - Xã hội

“Việt Nam coi trọng thúc đẩy quan hệ với Timor Leste”

Tháng Năm 8, 2013 Bình luận đã bị tắt

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tiếp Đại sứ Timor Leste tại Việt Nam, Jorge Trindade Neves de Camões. (Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN)

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định Việt Nam luôn coi trọng thúc đẩy quan hệ hợp tác nhiều mặt với Timor Leste nhất là thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư vì lợi ích thiết thực và vì sự phát triển chung của cả hai nước.

Chiều 8/5, tiếp Đại sứ Timor Leste Jorge Trindade Neves de Camões tới chào xã giao nhân nhận nhiệm vụ công tác tại Việt Nam, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng mong muốn Timor Leste tạo các điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp của hai nước tăng cường các hoạt động hợp tác kinh tế, trao đổi thương mại cũng như ủng hộ các doanh nghiệp của Việt Nam sang hợp tác đầu tư tại Timor Leste, nhất là đầu tư trong lĩnh vực viễn thông.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nêu rõ, trên nguyên tắc thị trường, Việt Nam luôn sẵn sàng thúc đẩy hoạt động xuất khẩu gạo sang Timor Leste nhằm góp phần đảm bảo an ninh lương thực cho Timor Leste; đồng thời sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm và hợp tác với Timor-Leste trong phát triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển hệ thống viễn thông…

Cảm ơn thiện chí hợp tác của Việt Nam, Đại sứ Jorge Trindade Neves de Camões khẳng định sẽ nỗ lực hết mình để thúc đẩy quan hệ hợp tác song phương giữa hai nước trên các lĩnh vực đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp; mong muốn Việt Nam chia sẻ kinh nghiệm, tăng cường hợp tác với Timor Leste trong xây dựng cơ sở hạ tầng, viễn thông, phát triển nông nghiệp…

Đại sứ Jorge Trindade Neves de Camões đề nghị Việt Nam tiếp tục tăng cường hợp tác với Timor-Leste trong trao đổi thương mại đối với các mặt hàng như nông sản, hàng nội thất, hàng dệt may cũng như các hàng hóa thiết yếu khác đối với đời sống người dân./.

Thiện Thuật (TTXVN)
vietnamplus.vn

Chuyên mục:Chính trị - Xã hội

Bài phát biểu của Tổng Bí thư khai mạc Hội nghị Trung ương bảy (Khóa XI)

Tháng Năm 2, 2013 Bình luận đã bị tắt

(ĐCSVN) – Sáng 2/5, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã khai mạc trọng thể tại Thủ đô Hà Nội. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có bài phát biểu quan trọng khai mạc Hội nghị. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu.

Thưa các đồng chí Trung ương,
Thưa các đồng chí tham dự Hội nghị,

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu khai mạc Hội nghị.
(Ảnh: HH)

Thực hiện Chương trình làm việc toàn khóa, hôm nay, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI bắt đầu họp Hội nghị lần thứ bảy để xem xét, quyết định, cho ý kiến chỉ đạo đối với các vấn đề: Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở; Đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận; Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992; Sơ kết một năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng Đảng; Quy hoạch cán bộ cấp chiến lược; Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, đẩy mạnh công tác bảo vệ tài nguyên, môi trường; và một số vấn đề quan trọng khác.Thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư, tôi nhiệt liệt chào mừng các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương và các đại biểu tham dự Hội nghị; xin gửi tới các đồng chí lời chúc tốt đẹp nhất.

Thưa các đồng chí,

Thời gian qua, Bộ Chính trị đã chỉ đạo Ban cán sự đảng Chính phủ, các ban đảng và các cơ quan hữu quan khẩn trương chuẩn bị các đề án, báo cáo, tờ trình để gửi Trung ương theo Quy chế làm việc; các đồng chí đã nghiên cứu trước. Sau đây, tôi xin phát biểu một số ý kiến có tính chất gợi mở, nêu vấn đề, mong được các đồng chí quan tâm trong quá trình thảo luận, xem xét, quyết định. Tập trung vào các nội dung sau:

1- Về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở

Chúng ta biết, khái niệm “hệ thống chính trị” được dùng ở nước ta lần đầu tiên tại Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (tháng 3-1989), sau đó được chính thức đưa vào Cương lĩnh năm 1991. Hệ thống chính trị bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội từ Trung ương đến cơ sở, liên quan đến cả cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành, bố trí cán bộ, phương thức hoạt động, lề lối làm việc và chế độ, chính sách đãi ngộ… rất phức tạp, nhạy cảm. Do đó, Đảng ta chủ trương phải lấy đổi mới kinh tế là trọng tâm, đồng thời đổi mới hệ thống chính trị từng bước vững chắc. Thực tế hơn 20 năm qua cho thấy, đây là một chủ trương đúng, chúng ta đã thực hiện nghiêm túc và nhờ thế đã thu được những kết quả rất quan trọng.

Để chuẩn bị cho Hội nghị Trung ương lần này, hơn một năm qua, Bộ Chính trị đã chỉ đạo tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX “Về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn”; sơ kết việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa X “Về đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan đảng, định hướng về đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội”; đồng thời đã nghe báo cáo một số chuyên đề về: Kết quả thí điểm không tổ chức hội đồng nhân dân ở một số huyện, quận, phường; thí điểm mô hình bí thư kiêm chủ tịch ủy ban nhân dân xã… Trên cơ sở đó xây dựng Đề án “Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở” trình Trung ương xem xét, ban hành Nghị quyết về vấn đề này.

Chúng ta cần tập trung thảo luận, đánh giá toàn diện các vấn đề liên quan đến việc quán triệt và tổ chức thực hiện các Nghị quyết, Kết luận của Trung ương, chỉ ra mặt được và mặt chưa được, phân tích nguyên nhân, đề xuất các quan điểm, chủ trương và biện pháp khắc phục những hạn chế, yếu kém. Chú ý làm rõ, vì sao ở một số nơi vai trò lãnh đạo của cấp ủy và tổ chức đảng chưa được phát huy đầy đủ; hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước chậm được nâng cao; việc đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội chưa mạnh, tình trạng “hành chính hóa ” chậm được khắc phục? Vì sao cải cách hành chính chưa đạt được kết quả mong muốn; bộ máy tổ chức và tổng biên chế vẫn tiếp tục phình to, nhất là ở cấp tổng cục, các đơn vị trực thuộc bộ và chính quyền cơ sở. Tình trạng “tách ra, nhập vào”, “nhập vào, tách ra” vẫn lặp đi lặp lại. Hoạt động của nhiều ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy khối vẫn lúng túng. Giữa các bộ, ngành vẫn còn một số nội dung quản lý nhà nước trùng lắp hoặc chưa được phân công cụ thể, rõ ràng. Việc phân cấp của Trung ương cho chính quyền địa phương, của cấp trên đối với cấp dưới nhìn chung chưa thật hợp lý; có lĩnh vực quá rộng, thiếu sự kiểm tra, giám sát, ảnh hưởng đến sự quản lý thống nhất cả nước; có lĩnh vực lại quá hẹp, không phát huy được quyền chủ động, tính năng động, sáng tạo của địa phương. Các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, cấp huyện sau khi sắp xếp lại tuy có giảm đầu mối trực thuộc ủy ban nhân dân nhưng lại tăng các đơn vị bên trong các sở, ngành. Vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về vị trí, vai trò, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường. Vấn đề biên chế, phụ cấp cho cán bộ cơ sở vẫn chưa có lời giải thấu đáo. Số các hội quần chúng được lập mới vẫn tăng nhanh, một số hội đề nghị có biên chế cán bộ, công chức và hưởng kinh phí từ ngân sách nhà nước,… Trên cơ sở đánh giá, phân tích những mặt hạn chế, yếu kém đó, cần có giải pháp gì để khắc phục một cách cơ bản.

2- Về đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới

Tổng kết quá trình cách mạng Việt Nam, Cương lĩnh chính trị (năm 2011) của Đảng đã rút ra 5 bài học, trong đó có bài học: Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; chính nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử; toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân; sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân; quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ và của Đảng. Công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.

Trong nhiều năm qua, nhất là từ khi ban hành Nghị quyết Trung ương 8b, khóa VI, công tác quần chúng của Đảng tiếp tục được đổi mới, góp phần làm nên những thành tựu có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vấn đề đặt ra là vì sao lúc này chúng ta lại phải bàn về đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận.

Phải chăng là do bối cảnh, tình hình đã và đang có nhiều thay đổi. Bên cạnh mặt thuận lợi cơ bản, cũng xuất hiện không ít khó khăn, thách thức mới, đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ mới và bản thân công tác dân vận hiện còn những hạn chế, yếu kém? Ví dụ như: Kinh tế thị trường phát triển, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đồng thời với những tác động tích cực, đã và đang xuất hiện những mặt trái, tiêu cực tác động hằng ngày, hằng giờ đến đời sống, tư tưởng, tình cảm của nhân dân. Tình trạng phân hóa giàu nghèo, phân cực, phân tầng xã hội; những biến đổi về quan hệ lợi ích, hệ giá trị xã hội; sự cách biệt về kinh tế, xã hội… làm nảy sinh tiền đề của sự phân hóa về nhận thức, tư tưởng. Những khó khăn về kinh tế – xã hội và đời sống hiện nay cùng với tính chất lâu dài, phức tạp và cuộc đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, giữa tiến bộ và lạc hậu trong bước chuyển quá độ lên chủ nghĩa xã hội đang tác động đến nhận thức, tư tưởng, tình cảm của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân. Những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,… đang làm tổn thương đến uy tín của Đảng và Nhà nước, làm giảm sút niềm tin của nhân dân. Lợi dụng những khó khăn của nước ta trên con đường phát triển, các thế lực thù địch đang đẩy mạnh các hoạt động “diễn biến hòa bình”, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, nói xấu chế độ, bôi nhọ đội ngũ cán bộ lãnh đạo, tìm mọi thủ đoạn phân hóa nội bộ Đảng, kích động chia rẽ nhân dân với Đảng, Nhà nước.

Trong khi đó chúng ta lại chậm đổi mới, cụ thể hóa cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Sự phối hợp giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị có lúc, có nơi còn thiếu chặt chẽ. Trách nhiệm của cấp ủy và chính quyền trong công tác dân vận ở nhiều nơi bị xem nhẹ, chỉ dựa chủ yếu vào bộ máy hành chính và biện pháp hành chính. Một số tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận, các đoàn thể nhân dân hoạt động kém năng động, hiệu quả, không nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng của nhân dân và cũng không đủ sức tuyên truyền, vận động, giải quyết những bức xúc của nhân dân. Tổ chức, hoạt động của các cơ quan chuyên trách làm công tác dân vận và của Mặt trận, các đoàn thể nhân dân chậm được đổi mới, tăng cường. Đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận ít được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực và cũng chưa được quan tâm đúng mức về chế độ, chính sách…

Các đại biểu dự Hội nghị. (Ảnh: HH)

 

Nhận rõ những khó khăn, thách thức, thấy hết những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân, chúng ta cần xác định đúng mục tiêu, yêu cầu, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo và nhiệm vụ, giải pháp để đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới. Phải chăng vấn đề có ý nghĩa quyết định để tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và nhân dân hiện nay vẫn là Đảng phải hết lòng, hết sức chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; củng cố, xây dựng tổ chức đảng và bộ máy chính quyền thật trong sạch, vững mạnh; khắc phục cho được những hiện tượng tiêu cực trong cán bộ, đảng viên, công chức, làm cho Đảng thật sự xứng đáng là người lãnh đạo và người công bộc trung thành của nhân dân.3- Về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992

Thực hiện các Nghị quyết của Trung ương và Quốc hội về sửa đổi Hiến pháp năm 1992, thời gian qua, cán bộ, đảng viên và đông đảo các tầng lớp nhân dân đã nhiệt liệt hưởng ứng, tích cực tham gia góp ý vào việc sửa đổi Hiến pháp. Hoạt động lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã thực sự là đợt sinh hoạt chính trị dân chủ, sâu rộng trong xã hội. Đồng bào, chiến sĩ cả nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã có nhiều ý kiến tâm huyết, thẳng thắn và trách nhiệm về cả nội dung và kỹ thuật lập hiến đối với hầu hết các chương, điều của Dự thảo. Bên cạnh đó, cũng có những ý kiến góp ý, nhận định chưa phù hợp, thậm chí có một số ít lợi dụng việc góp ý kiến để xuyên tạc, chống phá chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trên các phương tiện thông tin, truyền thông, nhiều cán bộ, đảng viên và các nhà nghiên cứu đã trao đổi, phân tích, làm sáng tỏ nhiều vấn đề, góp phần tạo được sự đồng thuận cao trong xã hội đối với những nội dung cơ bản của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp; đồng thời kiên quyết đấu tranh với những luận điệu tuyên truyền chống phá của các thế lực thù địch và số đối tượng cơ hội chính trị.

Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã chỉ đạo tập hợp, tổng hợp, phân loại, nghiên cứu, tiếp thu các ý kiến xác đáng; phân tích, giải trình lý do không tiếp thu những góp ý chưa phù hợp. Bộ Chính trị cũng đã thảo luận, có ý kiến chỉ đạo định hướng cho việc tiếp thu, giải trình. Đề nghị các đồng chí Trung ương bám sát Cương lĩnh của Đảng, các Nghị quyết, Kết luận của Hội nghị Trung ương 2 và Hội nghị Trung ương 5 về sửa đổi Hiến pháp năm 1992, nghiên cứu thật kỹ, thảo luận thật sâu các nội dung Báo cáo giải trình, tiếp thu và bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp mà Ủy ban sửa đổi Hiến pháp trình, đóng góp nhiều ý kiến có chất lượng. Tinh thần chung là phải chân thành lắng nghe ý kiến của nhân dân, tiếp thu tối đa những ý kiến hợp lý; kiên trì những vấn đề có tính nguyên tắc, thuộc về bản chất của chế độ chính trị và Nhà nước ta, tiếp tục khẳng định Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nòng cốt là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,… Tiếp tục kế thừa những quy định của Hiến pháp năm 1992 và các bản Hiến pháp trước đây còn phù hợp; chỉ sửa đổi, bổ sung những vấn đề thực sự cần thiết, đã rõ, được thực tiễn kiểm nghiệm và có sự thống nhất cao. Đối với những vấn đề mới hoặc còn nhiều ý kiến khác nhau, Trung ương cần xem xét, trao đổi thật kỹ để có phương án tiếp thu, giải trình phù hợp.

4- Sơ kết một năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng Đảng.

Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” là một Nghị quyết rất quan trọng, được đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân đặc biệt quan tâm và theo dõi, ngay từ khi Nghị quyết mới được ban hành, cũng như trong suốt quá trình triển khai thực hiện.

Sau hơn 1 năm thực hiện, chúng ta cần sơ kết để kịp thời rút kinh nghiệm và có những nhận định, đánh giá thống nhất, tạo sự đồng thuận cao, làm cơ sở cho việc tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt hơn nữa Nghị quyết này. Trên cơ sở Báo cáo của Bộ Chính trị và bằng thực tiễn của địa phương, đơn vị, đề nghị các đồng chí thảo luận một cách thẳng thắn và sâu sắc vấn đề này.

Với tinh thần nhìn nhận một cách khách quan, toàn diện và ý thức trách nhiệm, phải chăng chúng ta có thể nhận định: Trong hơn một năm qua, dù thời gian còn ngắn, nhiều việc mới triển khai hoặc chưa đạt kết quả như mong muốn, chưa đáp ứng được kỳ vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhưng với quyết tâm cao, tinh thần cầu thị, các cấp ủy và tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở đã triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 một cách nghiêm túc với một khối lượng công việc lớn, phức tạp, và đã đạt được những kết quả bước đầu rất quan trọng. Thể hiện trên một số mặt chủ yếu sau đây:

Một là, các cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên đã nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn về tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng trong tình hình mới; thấy rõ tính cấp bách và sự cần thiết phải tiếp tục đổi mới và chỉnh đốn đảng, làm cho Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh. Từ đó, xác định rõ hơn trách nhiệm của mình đối với vận mệnh của Đảng, của dân tộc, đề cao ý thức tự giác trong việc thực hiện Nghị quyết. Quá trình chuẩn bị và tiến hành kiểm điểm, tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết Trung ương 4 thực sự đã trở thành một đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng.

Hai là, thông qua việc chuẩn bị báo cáo kiểm điểm, báo cáo giải trình của tập thể, cá nhân một cách nghiêm túc, được bổ sung, hoàn thiện nhiều lần; việc tiếp thu ý kiến đóng góp của các tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên; việc tiến hành kiểm điểm, tự phê bình và phê bình thẳng thắn, kỹ lưỡng, đã giúp các cấp ủy , tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ hơn những ưu điểm để phát huy; những hạn chế, khuyết điểm để kịp thời sửa chữa, khắc phục. Đây là một dịp tốt để mỗi tổ chức và cán bộ, đảng viên tự nhìn nhận, soi xét lại mình, qua đó tự điều chỉnh suy nghĩ, hành động của bản thân và có những giải pháp cụ thể để sửa chữa, khắc phục khuyết điểm. Nó có tác dụng cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe và ngăn chặn những tiêu cực, sai phạm.

Ba là, hầu hết các cấp ủy, tổ chức đảng và nhiều cán bộ, đảng viên đã đề ra chương trình hành động và các biện pháp thiết thực để sửa chữa, khắc phục khuyết điểm, và trên thực tế đang có nhiều việc làm cụ thể. Ví dụ như: Trung ương đang triển khai việc xây dựng quy hoạch đội ngũ cán bộ cấp chiến lược; mở lớp đào tạo bồi dưỡng cán bộ nguồn; ban hành Quy định về việc nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu; quy định việc lấy phiếu tín nhiệm đối với một số chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý… Nhiều cấp ủy đã quy định cụ thể về việc sử dụng xe công, cải tiến tổ chức các hội nghị, chấn chỉnh tác phong công tác, lề lối làm việc, quy định về việc cán bộ lãnh đạo đi công tác nước ngoài; rà soát, điều chỉnh, thu hồi các dự án đã được cấp phép nhưng chậm triển khai hoặc chủ đầu tư không có khả năng thực hiện; sắp xếp lại tổ chức bộ máy và bố trí lại một số cán bộ; tăng cường việc thanh tra, kiểm tra và kết luận để điều chỉnh hoặc xem xét, xử lý kỷ luật đối với những người có dư luận liên quan đến tham nhũng, tiêu cực; tập trung xem xét, giải quyết các vụ khiếu kiện kéo dài và xem xét giải quyết dứt điểm các vụ án tồn đọng hoặc được dư luận đặc biệt quan tâm v.v…

Bốn là, các cấp ủy, tổ chức đảng có thêm kinh nghiệm trong việc chỉ đạo thực hiện công tác xây dựng Đảng nói chung, kiểm điểm, tự phê bình và phê bình nói riêng. Có thể nói, với sự chỉ đạo chặt chẽ, cụ thể, có trọng tâm, trọng điểm của Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong quá trình thực hiện Nghị quyết với quy trình tiến hành kiểm điểm từ trên xuống dưới, nêu cao vai trò tiền phong gương mẫu của cấp trên và của người đứng đầu; việc tổ chức lấy ý kiến đóng góp của tập thể và cá nhân trước khi kiểm điểm; việc gợi ý kiểm điểm đối với những nơi có vấn đề nổi cộm; việc thông báo kết quả và tiếp thu ý kiến đóng góp của các tổ chức và cá nhân sau kiểm điểm… là những cách làm mới, có tác dụng tích cực trên nhiều mặt.

Năm là, trong bối cảnh có nhiều khó khăn, thách thức, việc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 đã góp phần thúc đẩy các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội năm 2012, hoàn thành cơ bản các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, giữ vững trật tự an toàn xã hội; chủ động hội nhập, nâng cao uy tín, vị thế quốc tế của đất nước. Không vì tập trung thực hiện nghị quyết mà sao nhãng công việc thường xuyên, ngược lại, việc chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, giải quyết những vấn đề bức xúc, nổi cộm càng được chú trọng và đem lại những kết quả rất đáng ghi nhận.

5- Về xây dựng quy hoạch cán bộ cấp chiến lược

Thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, thời gian qua, Bộ Chính trị đã sớm chỉ đạo triển khai việc xây dựng Đề án quy hoạch cán bộ cấp chiến lược. Sau khi được Hội nghị Trung ương 6 khóa XI thông qua Đề án, Bộ Chính trị đã khẩn trương chuẩn bị để trình Hội nghị Trung ương lần này cho ý kiến về dự kiến quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước nhiệm kỳ 2016 – 2021 và các nhiệm kỳ tiếp theo. Với tinh thần trách nhiệm cao, các đồng chí Trung ương đã tích cực tham gia phát hiện, giới thiệu nguồn quy hoạch. Tổng hợp kết quả phát hiện, giới thiệu, bước đầu cho thấy nguồn cán bộ khá dồi dào về số lượng, có đủ 3 độ tuổi cho các chức danh, trong đó có khá nhiều cán bộ trẻ, cán bộ nữ. Bộ Chính trị đã xem xét, thảo luận và có ý kiến sơ bộ về chức danh nhân sự dự kiến đưa vào Quy hoạch nhiệm kỳ 2016 – 2021 và các nhiệm kỳ tiếp theo.

Tại hội nghị này, Bộ Chính trị đề nghị Ban Chấp hành Trung ương cho ý kiến về nguyên tắc, tiêu chí, phương pháp lựa chọn nhân sự đưa vào quy hoạch; về số lượng cho mỗi chức danh; về cơ cấu độ tuổi, giới tính, thành phần xuất thân và phương án nhân sự cụ thể đưa vào quy hoạch, sau đó giao cho Bộ Chính trị căn cứ ý kiến của Trung ương cân nhắc, quyết định chính thức. Để bảo đảm tính khả thi, thực chất của quy hoạch và tính kế thừa, phát triển của đội ngũ cán bộ, việc lựa chọn nhân sự đưa vào quy hoạch phải theo đúng đối tượng, độ tuổi, số lượng và cơ cấu như Đề án quy hoạch mà Hội nghị Trung ương 6 đã thông qua. Phân biệt công tác quy hoạch với công tác nhân sự: Công tác quy hoạch là việc chủ động chuẩn bị nguồn nhân sự từ xa cho công tác cán bộ, bao gồm cả khâu đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện để chuẩn bị bố trí, bổ nhiệm cán bộ trong tương lai; còn công tác nhân sự là việc lựa chọn người để bố trí, bổ nhiệm vào vị trí có nhu cầu theo tiêu chuẩn chức danh cán bộ. Do vậy, việc lựa chọn nhân sự vào quy hoạch cần có tiêu chí, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và sự liên thông giữa quy hoạch của cấp trên và cấp dưới; đồng thời phải làm nhiều lần, bổ sung, điều chỉnh dần, không nhất thiết phải đủ số lượng ngay từ đầu. Đây là lần đầu tiên Trung ương tiến hành xây dựng quy hoạch cán bộ cấp chiến lược, chắc là không tránh khỏi những mặt còn hạn chế, chúng ta sẽ vừa làm vừa rút kinh nghiệm.

6- Về ứng phó với biến đổi khí hậu; bảo vệ tài nguyên, môi trường

Ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia, dân tộc; đồng thời cũng là thách thức to lớn đối với nhân loại trong thế kỷ XXI. Việt Nam là quốc gia ven biển, dễ bị tổn thương trước những tác động của biến đổi khí hậu; tài nguyên có hạn trong khi nhu cầu khai thác, sử dụng tăng nhanh; môi trường chịu áp lực lớn từ quá trình phát triển kinh tế – xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã luôn chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo công tác này, coi đây là một nhiệm vụ trọng yếu. Trong các văn kiện Đại hội IX, X, XI và nhiều nghị quyết, chỉ thị của Đảng gần đây đã có đề cập vấn đề này, nhưng chưa có một nghị quyết chuyên đề toàn diện, sâu sắc của Ban Chấp hành Trung ương cho cả 3 nội dung ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.

Nhiệm vụ đặt ra tại Hội nghị Trung ương lần này là phải bàn bạc thấu đáo để có những chủ trương, phương hướng đúng đắn, kịp thời chỉ đạo thực hiện có kết quả lĩnh vực này, nhằm quán triệt, cụ thể hóa quan điểm phát triển bền vững của Đại hội XI, thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2020 cũng như lâu dài của đất nước. Muốn thế, chúng ta cần thảo luận, đánh giá thật khách quan, khoa học tình hình biến đổi khí hậu, tài nguyên, môi trường và công tác ứng phó với biến đổi khí hậu ở nước ta trong thời gian qua. Nhất là tình trạng nước biển dâng, ngập lụt, triều cường, xâm nhập mặn; phòng tránh, giảm nhẹ tác hại của thiên tai, bão lũ, hạn hán; quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên, khoáng sản, tìm kiếm, phát triển các nguồn mới thay thế; phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm, bảo vệ môi trường, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học. Đồng thời, dự báo đúng xu thế diễn biến trong từng lĩnh vực, những thách thức và vấn đề lớn đặt ra cần phải nghiên cứu xử lý. Trên cơ sở đó đề ra quan điểm, mục tiêu và định hướng nhiệm vụ, giải pháp sát hợp, khả thi. Có quan điểm chỉ đạo chung cho cả ba lĩnh vực và cho mỗi lĩnh vực; mục tiêu tổng quát đến năm 2020, tầm nhìn 2050; mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp cụ thể của kế hoạch 5 năm 2011 – 2015 và chiến lược 10 năm 2011 – 2020.

Trong quá trình này, phải nhìn nhận đầy đủ vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng, cơ quan Nhà nước, cộng đồng các doanh nghiệp, của người dân và của toàn xã hội. Xem xét toàn diện các vấn đề song phải có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình, bước đi phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Xác định và giải quyết tốt mối quan hệ giữa thích nghiứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, phòng chống, giảm thiểu tác hại của thiên tai; giữa quản lý, khai thác, sử dụng trước mắt với giữ gìn, bảo vệ tài nguyên, môi trường cho tương lai lâu dài. Việc xác định các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp phải dựa trên tinh thần chủ động, quyết liệt, có chương trình, kế hoạch hành động sát hợp về khoa học – công nghệ cũng như kinh tế – xã hội, và được đặt trong tổng thể chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển cho từng thời kỳ. Phải có sự tính toán ngay từ đầu các điều kiện bảo đảm việc thực hiện, nhất là điều kiện về khoa học – công nghệ và các nguồn lực trong nước và quốc tế, bao gồm nhân lực và nguồn lực tài chính; kết hợp công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức với việc đề ra và thực hiện đồng bộ hệ thống các cơ chế, chính sách phù hợp và chế tài đủ mạnh.

Thưa các đồng chí,

Những nội dung trình Hội nghị Trung ương lần này đều là những vấn đề khó, phức tạp nhưng rất quan trọng đối với sự phát triển bền vững của đất nước, không chỉ trong nhiệm kỳ này mà cho cả các nhiệm kỳ tiếp theo. Mặc dù đã được Bộ Chính trị chỉ đạo nghiên cứu, chuẩn bị nghiêm túc, công phu, nhưng chắc không tránh khỏi những hạn chế, khiếm khuyết. Đề nghị Trung ương và các đồng chí tham dự Hội nghị phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm, tập trung nghiên cứu, thảo luận kỹ lưỡng, cho ý kiến để hoàn thiện các báo cáo, đề án và xem xét, quyết định vào cuối kỳ họp.

Với tinh thần đó, tôi xin tuyên bố khai mạc Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI. Chúc Hội nghị thành công tốt đẹp.

Xin trân trọng cảm ơn./.

dangcongsan.vn

Những bức ảnh lịch sử ngày toàn thắng

Tháng Năm 1, 2013 Bình luận đã bị tắt

(VOV) – Ngày này 38 năm về trước, 5 mũi tấn công của ta đã thần tốc tiến vào đánh chiếm sào huyệt cuối cùng Sài Gòn, đưa non sông về một mối.

Cuối tháng 3/1975, đồng chí Lê Đức Thọ từ miền Bắc vào Nam cùng đồng chí Phạm Hùng và Đại tướng Văn Tiến Dũng thay mặt Bộ Chính trị trực tiếp chỉ đạo chiến dịch giải phóng Sài Gòn.

Tại khu rừng cao su phía Nam Dầu Giây, Sư đoàn 304 trao lá cờ quyết chiến, quyết thắng cho Trung đoàn 66 Anh hùng để cắm trên Dinh Độc lập ngày giải phóng Sài Gòn, ảnh của nhà báo, NSNA Đinh Quang Thành.

Lữ đoàn tăng 203 cùng Sư đoàn bộ binh 304, Quân đoàn 2 đánh địch trên xa lộ Biên Hòa-Sài Gòn, tiến vào giải phóng thành phố Sài Gòn (Ảnh: Đinh Quang Thành).

Tiến vào Dinh Độc Lập

Bức ảnh xe tăng húc đổ cảnh cổng Dinh Độc Lập do nữ phóng viên người Pháp Francoise Demulder chụp trưa ngày 30/4/1975.

Đại đội trưởng Bùi Quang Thận đang cầm lá cờ tiến vào Dinh Độc Lập

Các chiến sĩ Sư đoàn 10 Quân đoàn 3 đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất ngày 30/4/1975.

Cảnh hỗn loạn của Sài Gòn trong giờ phút cuối cùng của chế độ Ngụy quyền.

Dương Văn Minh đọc lời đầu hàng vô điều kiện trên Đài phát thanh Sài Gòn.

Nhân dân Sài Gòn chào mừng các anh giải phóng quân.

Đông đảo các tầng lớp nhân dân Sài Gòn tham dự mít tinh mừng chiến thắng.

Bức ảnh đã đi vào tâm trí của nhiều thế hệ, “Mẹ con ngày gặp lại” của nhà báo Lâm Hồng Long.

Quang Trung/VOV online
(Ảnh tư liệu)
vov.vn

Chuyên mục:Chính trị - Xã hội

Không thể xuyên tạc, bóp méo thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt Nam

Tháng Năm 1, 2013 Bình luận đã bị tắt

Làm thất bài chiến lược “Diễn biến hòa bình”

QĐND – Lịch sử không thể thay đổi. Người ta chỉ có thể thay đổi cách nhìn nhận về lịch sử tùy theo quan điểm và lợi ích chính trị của mình mà thôi. Vì những lý do khác nhau, trong thời gian qua, không ít kẻ đã cố tình xuyên tạc, bóp méo lịch sử dân tộc ta, trong đó có ngày Chiến thắng 30-4-1975.

Trong thế kỷ XX, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam – Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, dân tộc ta đã viết nên những trang sử hào hùng trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Trong những trang lịch sử rực rỡ đó có thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Đúng như Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV đã viết: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc” [1].

Nhân dân Sài Gòn vui mừng trong ngày chiến thắng. Ảnh tư liệu/internet.

Lịch sử không thể thay đổi. Người ta chỉ có thể thay đổi cách nhìn nhận về lịch sử tùy theo quan điểm và lợi ích chính trị của mình mà thôi. Vì những lý do khác nhau, trong thời gian qua, không ít kẻ đã cố tình xuyên tạc, bóp méo lịch sử dân tộc ta, trong đó có ngày Chiến thắng 30-4-1975. Có kẻ nói rằng, cuộc kháng chiến chống Mỹ là “nồi da, nấu thịt”, là ‘Cuộc chiến tranh của Hà Nội”, “Ngày 30-4-1975 không phải là ngày giải phóng miền Nam vì quân đội Mỹ đã rút”… Thậm chí gần đây có kẻ còn nói: “Người Mỹ không thua vì tổng số thương vong, người Mỹ bị thiệt hại ít hơn hẳn đối phương”; hay: “Cuộc chiến tranh này với mục tiêu ngăn chặn làn sóng Cộng sản ở Đông Nam Á nên không thể nói là chính phủ Mỹ thất bại”(!).

Lịch sử dân tộc ta từng ghi nhận nhiều chiến công hiển hách, đã từng đánh bại nhiều đội quân xâm lược hùng mạnh bậc nhất thế giới, nhưng chưa bao giờ dân tộc ta lại phải đương đầu với một lực lượng xâm lược ở một trình độ phát triển cao hơn mình về nhiều phương diện đến thế. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ đương nhiên không phải là một thắng lợi dễ dàng mà đây còn là cuộc đối đầu về ý chí, bản lĩnh và trí tuệ của hai bộ máy lãnh đạo chiến tranh. Để đi đến thắng lợi 30-4-1975, quân dân ta đã đánh bại 3 chiến lược chiến tranh của Mỹ và với 5 đời tổng thống Mỹ.

Vì vậy, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta đã được bè bạn quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Trong điện chúc mừng thắng lợi của nhân dân ta, ngày 30-4-1975, các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước Trung Quốc viết: “Thắng lợi của nhân dân Việt Nam một lần nữa chứng minh hùng hồn rằng, nhân dân một nước, dù là nhân dân một nước nhỏ, miễn là dám vùng dậy đấu tranh, dám cầm vũ khí, lấy chiến tranh chính nghĩa chống lại chiến tranh phi nghĩa, thì nhất định có thể đánh bại bất cứ kẻ thù nào… nhằm bảo vệ độc lập tự do của Tổ quốc, giải phóng dân tộc” [2]. Trong điện mừng của các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước Cu-ba, có đoạn viết: “Trong hơn 20 năm qua, toàn thể nhân dân Việt Nam ở miền Bắc cũng như ở miền Nam, với chủ nghĩa anh hùng tuyệt vời đã chiến đấu chống lại những hình thức xâm lược đế quốc tàn bạo nhất… Thắng lợi của nhân dân Việt Nam đã mở ra một giai đoạn mới cho nhân dân Việt Nam” [3].

Còn từ phía bên kia, trong cuốn hồi ký với tiêu đề “Nhìn lại quá khứ- Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam”, Robert S.McNamara, từng là Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ thời kỳ chiến tranh Việt Nam, không chỉ thừa nhận thất bại của Mỹ, coi đó là “một thảm kịch”, mà còn thừa nhận đây là cuộc chiến tranh do Hoa Kỳ gây ra do những sai lầm về chính trị của nhiều đời tổng thống! Trong những sai lầm đó có những sai lầm về: “Đánh giá sai những chủ đích địa chính trị của các đối thủ, đã phóng đại những mối nguy hại của họ đối với nước Mỹ”; rồi: “Chúng ta đánh giá thấp sức mạnh tinh thần dân tộc của họ”; và: “Cách nhìn nhận của chúng ta về bạn và thù phản ánh sự dốt nát sâu sắc của chúng ta về lịch sử, văn hóa và chính trị của nhân dân Việt Nam”.[4]

Ý nghĩa và tầm vóc vĩ đại của Chiến thắng 30-4-1975 đã được lịch sử kiểm chứng sáng tỏ, rõ ràng như vậy. Nhưng thời gian gần đây, vẫn có những kẻ hoặc là thiển cận về chính trị, hoặc vì “đầu óc nô lệ” đã không thể, không muốn thừa nhận thắng lợi vĩ đại đó của dân tộc ta. Thế nên, họ cố tình lập luận một cách phi lý rằng: Những cuộc xuống đường của nhân dân Mỹ và sự nhân nhượng của Chính phủ Mỹ đâu phải là “thắng lợi của Việt Nam”(!), hay như: Thất bại của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” (sau khi Mỹ rút dần quân đội ở chiến trường) đâu phải là trách nhiệm của quân đội Hoa Kỳ(!).

Trên thực tế, những kẻ xuyên tạc cuộc chiến tranh chống xâm lược của dân tộc ta không biết một điều căn bản rằng, cách nhìn nhận một cuộc chiến tranh trước hết phải bắt đầu xem xét tính chất của cuộc chiến tranh đó, tức bên nào là chính nghĩa, bên nào là phi nghĩa. Trong cuộc chiến tranh này không chỉ là cuộc chiến tranh giữa hai quốc gia mà còn là cuộc đấu tranh giữa hai phía: Chính nghĩa và phi nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị, cuộc kháng chiến của dân tộc ta đã làm rõ ý nghĩa, giá trị của chính nghĩa trong việc huy động sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại như thế nào. Bởi vậy, không phải là không có lý khi nhiều nhà nghiên cứu chiến tranh Việt Nam đã thừa nhận rằng, lực lượng hiếu chiến, chống cộng Mỹ “đã thua Việt Nam ngay trên đất nước mình”. Còn ông Nguyễn Cao Kỳ, cựu Thủ tướng chính quyền Sài Gòn sau 30 năm chiến tranh kết thúc, năm 2004, lần đầu tiên trở về quê hương đã nhìn nhận về chính quyền cũ như sau: “Quân đội miền Nam không có ai đáng giá cả, kể từ ông Nguyễn Văn Thiệu, Tổng thống kiêm Tổng tư lệnh trở xuống. Trong số những vị cùng vai với tôi, cứ mười ông thì đến mười một ông tham sống sợ chết!”. [5]

Tôn trọng tính chân thực của lịch sử ngày nay không chỉ vì bảo vệ các giá trị của dân tộc mà còn để bảo đảm sự công bằng đối với các thế hệ đi trước. Đồng thời còn giúp cho các thế hệ sau nắm bắt được những bài học quý báu của thế hệ cha anh. Tôn trọng lịch sử không chỉ là vấn đề chính trị mà còn là vấn đề đạo đức. Vì vậy chúng ta không cho phép bất cứ ai xuyên tạc, bóp méo, phủ nhận thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược vì đó là sự xúc phạm đến danh dự, phẩm giá chính nghĩa của cả một dân tộc anh hùng, xúc phạm đến anh linh của hàng triệu đồng bào, chiến sĩ đã hy sinh anh dũng vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.

——

[1]- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t.37, tr. 471.
[2] – Thế giới ca ngợi thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta. NXB ST, HN, 1977, Tr 31.
[3] – Thế giới ca ngợi…SĐD, Tr 72.
[4] – “Robert McNamara: 11 sai lầm của Mỹ trong chiến tranh Việt” … Dân trí, 22-04- 2005.
[5] – “Nguyễn Cao Kỳ và những phát ngôn ấn tượng”. Theo www.baodatviet.vn, 24-07-2011.

BẮC HÀ – LỆ CHI
qdnd.vn

Chuyên mục:Chính trị - Xã hội Thẻ:

Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam

Tháng Năm 1, 2013 Bình luận đã bị tắt

Đảo Đá Lớn thuộc quần đảo Trường Sa, Việt Nam. (Ảnh: Trọng Đạt/TTXVN)

Sau một ngày làm việc tích cực, Hội thảo quốc tế “Chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa – khía cạnh lịch sử và pháp lý” đã thành công tốt đẹp.

[Việt Nam thực thi chủ quyền với Hoàng Sa, Trường Sa

Trong các phiên thảo luận, các đại biểu đã tập trung thảo luận làm rõ các chứng cứ lịch sử, pháp lý khẳng định Nhà nước Việt Nam từ lâu đời đã thực hiện chủ quyền liên tục và hòa bình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, phù hợp với thực tiễn và luật pháp quốc tế. Các ý kiến tại hội thảo có ý nghĩa khoa học và mang tính thực tế cao.

Các đại biểu nhấn mạnh, Việt Nam có những văn bản pháp lý khẳng định các Nhà nước Việt Nam đã xác lập thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa ít nhất từ thế kỷ thứ 17. Đáng chú ý, ông Jonathan D.London trong tham luận của mình đã chỉ ra rằng Trung Quốc không có chứng cứ lịch sử về chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa; các bản đồ và tài liệu lịch sử chính thức của Trung Quốc thời nhà Minh và nhà Thanh cho thấy lãnh thổ của Trung Quốc kết thúc tại đảo Hải Nam.

Tại Hội thảo, nhiều học giả đã lên tiếng phê phán việc Trung Quốc thành lập cái gọi là thành phố “Tam Sa” vi phạm chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa; phê phán yêu sách phi lý “đường lưỡi bò” ở Biển Đông, cho rằng yêu sách “đường lưỡi bò” không được công nhận bởi bất cứ luật pháp quốc tế nào và do đó hoàn toàn bất hợp pháp.

Sáng 28/4, các đại biểu tham dự Hội thảo đã ra thăm huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi và chứng kiến Lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa – lễ hội tri ân những binh lính đã hy sinh hàng trăm năm trước, khi vâng lệnh triều đình ra các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa cắm mốc, dựng bia khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông.

Nhân dịp này, các học giả đã tham quan các di tích lịch sử gắn liền với các hoạt động của đội Hoàng Sa trên đảo như Nhà trưng bày lưu niệm đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải… và được nghe chính những người dân giới thiệu về các chứng tích, câu chuyện lịch sử gắn liền với những di tích này đồng thời, qua cuộc trò chuyện với ngư dân Lý Sơn, các học giả có cơ hội tìm hiểu về cuộc sống cũng như các khó khăn, bất trắc trong cuộc bám biển mưu sinh của những người dân kiên cường nơi đây.

Việc tận mắt chứng kiến các hoạt động Lễ hội, chứng kiến cuộc sống của người dân và tham quan các di tích lịch sử trên đảo Lý Sơn giúp các học giả hiểu rõ hơn về truyền thống yêu nước của người dân Việt Nam và có cái nhìn khách quan, xác thực về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa./.

(TTXVN)
vietnamplus.vn

Chuyên mục:Chính trị - Xã hội

Cả nước mừng lễ 30-4 và 1-5

Tháng Tư 29, 2013 Bình luận đã bị tắt

(ĐVO) – Hàng loạt các hoạt động kỷ niệm 38 năm Ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30-4-1975 – 30-4-2013) và 127 năm Ngày Quốc tế Lao động (1-5-1886 – 1-5-2013) được tổ chức trên cả nước.

Bữa tiệc pháo hoa nghệ thuật tầm thấp sẽ được bắn với thời lượng 15 phút (21h – 21h15 ngày 30/4) tại khu vực đầu hầm Thủ Thiêm (đường hầm sông Sài Gòn, quận 2) và Công viên Văn hóa Đầm Sen (quận 11, TP Hồ Chí Minh).

Người dân đang háo hức chờ đợi những màn pháo hoa nghệ thuật đẹp mắtNgười dân đang háo hức chờ đợi những màn pháo hoa nghệ thuật đẹp mắt

Tại Tp Hồ Chí Minh, trên tuyến đường Lê Duẩn, Q1 được trang trí lung linh ánh sáng nghệ thuật công phu từ ngày 25/4 đến hết ngày 10/5.

Chương trình biểu diễn nghệ thuật hấp dẫn, hoành tráng được Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với các đơn vị tổ chức tại Khu A- Công viên 23-9, Sân khấu Sen Hồng, Công viên Gia Định 2; xã Tân Thông Hội – huyện Củ Chi, Khu tưởng niệm Liệt sĩ Ngã Ba Giồng – huyện Hóc Môn, Trung tâm Văn hóa quận 12, Khu di tích Lịch sử Láng Le, Bàu Cò – huyện Bình Chánh, Công viên Lịch sử – Văn hóa Dân tộc – quận 9, thị trấn Cần Thạnh – huyện Cần Giờ vào hai đêm 30/4 và 1/5.

TPHCM cuộc đua xe đạp tranh Cúp Truyền hình TP lần thứ 25 do Đài Truyền hình TP tổ chức sẽ cán đích lúc 11 giờ 30 ngày 30/4 tại đường Lê Duẩn.

Tại Hà Nội, trên nhiều tuyến phố, công viên, quảng trường trên địa bàn Hà Nội đang được trang hoàng lộng lẫy để kỷ niệm 38 năm ngày giải phóng miền Nam (30/4/1975 – 30/4/2013). Khắp nơi trong thành phố đều được trang hoàng bởi cờ, khẩu hiệu và hoa lộng lẫy… Vào những ngày cuối tháng 4, các tuyến phố Hà Nội được trang hoàng rực rỡ với cờ đỏ sao vàng, băng rôn, biểu ngữ… Tất cả công nhân của Công ty Công viên cây xanh và Công ty Chiếu sáng Đô thị đang khẩn trương hoàn thiện những công đoạn cuối cùng để người dân Thủ đô đón mừng đại lễ của dân tộc (30/4) và của cả Thế Giới (1/5).

Thủ đô Hà Nội những con đường cũng sực sỡ sắc hoa chào đón ngày giải phóng miền Nam 30/4 và Quốc tế lao động 1/5Thủ đô Hà Nội những con đường cũng sực sỡ sắc hoa chào đón ngày giải phóng miền Nam 30/4 và Quốc tế lao động 1/5

Một Hà Nội rực rỡ sắc đỏ của cờ , băng rôn, khẩu hiệu….và làm người ta mê mẩn bởi những làn hoa đẹp lung linh trên phố.

Tại Đà Nẵng, một lễ hội rực rỡ pháo hoa cũng được chuẩn bị công phu vào đúng dịp kỷ niệm ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.

Các hoạt động chuẩn bị tại lễ hội pháo hoa cũng đang được gấp rút thực hiện để mở màn trong vài tiếng nữaCác hoạt động chuẩn bị tại lễ hội pháo hoa cũng đang được gấp rút thực hiện để mở màn trong vài tiếng nữa

Cờ Tổ quốc bay khắp nơi và người dân thì háo hức chờ đợi sự kiện vui xảy raCờ Tổ quốc bay khắp nơi và người dân thì háo hức chờ đợi sự kiện vui đang tới

Bích Ngọc (Tổng hợp)
baodatviet.vn

Chuyên mục:Chính trị - Xã hội